Hôm nay,  

Đơn Dương và những chuyến tàu hỏa thời niên thiếu

3/3/202315:29:00(View: 4035)
Tùy bút

tauhoa-vn

Đơn Dương, một quận nhỏ thuộc tỉnh Tuyên Đức, cách thành phố Đà Lạt khoảng 30 cây số, ở độ cao 1000 m so với mực nước biển nên khí hậu mát mẻ quanh năm. Đơn Dương là một quận trù phú vì đất đai màu mỡ, cây trái hoa màu tươi tốt có thu hoạch rất cao. Cái quận nhỏ mà người ta không thể tìm thấy trên bản đồ có tỉ lệ thấp, ít người ở Saigon biết đến nhưng đối với tôi Đơn Dương là thị trấn êm đềm, thơ mộng với phong cảnh đồi núi đẹp như tranh, đã gắn bó cùng tuổi thơ hạnh phúc của tôi với biết bao kỷ niệm thân thương.

 

Ký ức tuổi thơ của tôi thật đẹp với nhiều ngăn mang nhiều địa danh là quê nhà, là quê hương mới, là nơi chốn ngập tràn nỗi nhớ niềm thương như Hà Nội, Saigon, Phan Rang, Đà Lạt… nhưng Đơn Dương vẫn là ngăn lớn nhất với nhiều hình ảnh đẹp nhất, kỷ niệm đáng nhớ nhất. Quê hương bên ngoại tôi là Hà Nội. Ở Saigon, tôi sống trong tình yêu thương của gia đình Ông Bà ngoại và lớn lên trong bầu không khí đầm ấm, hòa thuận. Mọi người yêu thương nhau rất mực, dịu dàng từng cử chỉ và lời nói với giọng thanh tao của những người từ thủ đô ngàn năm văn vật xưa. Ông Bà tôi có hai người con gái. Mẹ tôi và Dì Út Hà cách nhau một con giáp, vì cùng tuổi nên gần gũi và yêu thương nhau. Đối với tôi, Mẹ và Dì Út đều đẹp lắm, hai người giống nhau từ khuôn mặt, tướng mạo cho đến giọng nói nhẹ nhàng đằm thắm, chỉ khác là Dì hơi thấp hơn một chút. Khi tôi sắp thi tiểu học thì Dì Út xuất giá. Có người bà con làm mai, giới thiệu một gia đình cũng gốc người Hà Nội sống trên cao nguyên, ở một thị trấn có tên là Dran, xuống Saigon đến nhà ngỏ lời xin cưới Dì Út cho con trai tên Minh. Cái địa danh Dran nghe lạ lẫm và thật xa xôi làm Ông Bà tôi phân vân, nhưng Ông là người phóng khoáng nên đồng ý sẽ chiều theo quyết định của Dì tôi. Lúc ấy, Dì Út là một thiếu nữ đẹp đoan trang nên có nhiều chàng trai theo đuổi. Không biết có phải do giai duyên tiền định hay vì xiêu lòng ngay trong lần đầu gặp chàng thanh niên cao ráo, đẹp trai và phong nhã là Chú Minh mà Dì Út của tôi chịu đi làm dâu xứ lạ.

 

Sau lễ cưới nhà thật buồn và vắng vẻ. Người con út yêu quí, người em gái nhỏ khéo ăn khéo nói, giỏi gia chánh nữ công đã rời xa mái ấm. Ai cũng nhớ mong nhưng không dám thổ lộ vì mỗi lần có ai nhắc đến Dì là Mẹ tôi lại khóc. Cứ như thế nhiều năm sau. Dì Út vẫn thường thư từ về thăm nhà nhưng Mẹ tôi vẫn nhớ, nên tôi được làm “sứ giả” với nhiệm vụ mỗi kỳ hè hàng năm lên Dran thăm để “xem Dì Út con có khỏe và vui không, về báo cho Mẹ yên tâm”. Từ đó, mỗi năm cứ sắp nghỉ hè là tôi lại háo hức chờ đi Dran để thăm gia đình của Dì Chú. Đối với một thiếu sinh năng động và hiếu kỳ như tôi, Dran quả là điểm đến lý tưởng để cùng Chú Hưng, em trai út của Chú Minh, làm những cuộc thám du kỳ thú. Cứ đều đặn như thế cho đến khi tôi trưởng thành. Trái tim mẫn cảm của chú bé 12 tuổi mang đầy ắp tình cảm gia đình từ thành phố lên cao nguyên và trở về. Thế rồi Đơn Dương đã trở thành miền đất thân thương của tôi trong suốt thời niên thiếu. Cho đến bây giờ, sau hơn nửa đời phiêu bạt tha hương, Đơn Dương trong tôi vẫn là hình ảnh những ngọn đồi thông reo vi vút, điệu nhạc êm ả bất tận thoảng gần thoáng xa, trầm bổng theo từng cơn gió. Là cảnh sương giăng mờ núi đồi khi chiều xuống, từng bầy chim kêu xao xác hối hả bay về tổ. Là cảnh bình minh tuyệt đẹp khi những tia nắng vàng óng ả đầu ngày xuyên qua màn sương còn phủ trắng xóa. Là những vườn hoa nở rộ, màu sắc lung linh làm du khách lạc lối về.

 

Vào thời thanh bình thịnh trị, xã hội yên bình nên mới mười mấy tuổi đầu tôi được gia đình cho đi chơi xa một mình và tôi rất thích thú, không sợ gì cả. Phương tiện di chuyển an toàn nhất lúc đó là tàu hỏa. Chuyến tàu Saigon Đông Hà đã hoạt động. Miền Nam có đường Saigon Mỹ Tho. Miền Trung có tuyến đường sắt leo núi Tháp Chàm Đà Lạt. Tôi rất mê tàu hỏa. Mỗi chuyến đi đều có những khám phá mới vì dù còn nhỏ tôi đã cảm nhận được vẻ đẹp của quê hương, thích ngắm nhìn những cảnh sinh hoạt của hành khách từ sân ga cho đến trong các toa tàu. Còn nữa, vui nhất là được thưởng thức những món ăn đặc sản của những vùng đất tàu đi qua. Khi xưa, hộp đựng và bịch nylon chưa thông dụng, các gói thức ăn bằng lá chuối và giấy báo vẫn hấp dẫn và ngon lắm. Nếu đã từng đi tàu hỏa ra miền Trung chắc không ai quên gói cơm thịt nướng thơm nức mũi bán ở ga Phan Thiết. Từ ga Sông Lòng Sông trở đi, hành khách được thưởng thức những xâu thịt rừng béo ngậy, ăn một xâu rồi tiếc là tàu đã chuyển bánh không kịp mua thêm. Đến ga Tháp Chàm phải xuống để đổi tàu lên Đà Lạt. Đây là một ga rất tấp nập với số lượng lớn hàng hóa lên xuống. Thời gian chờ hơi lâu nhưng có hề gì. Cứ nhẩn nha xơi hết một ống cơm lam với hương vị đậm đà của núi rừng, uống thêm một chai nước xá xị mát lạnh vẫn còn thơ thới, kịp giờ lên tàu đi Đà Lạt.

 

Đoàn tàu hỏa chạy tuyến Tháp Chàm Đà Lạt dài 84 cây số với nửa đọan đường có gắn răng cưa để tàu lên và xuống dốc an toàn nên chỉ kéo ít toa tàu hơn. Vì thế toa nào cũng chật cứng hành khách và hàng hóa. Không khí trên tàu cũng ồn ào hơn. Náo nhiệt vì những bạn hàng bàn luận về hàng họ giá cả, chuyện vãn và vui đùa rất thoải mái. Đa số người chuyển hàng là phụ nữ, tuy có vẻ lam lũ nhưng cứ nhìn họ cười nói vui vẻ tôi cảm thấy có lẽ họ đang vui sống và không nề hà cực khổ với nghề buôn theo tàu hỏa này. Thấy tôi còn nhỏ đi tàu có một mình nhiều bà hỏi thăm, lộ vẻ thương cảm và dặn dò đủ thứ làm cho tôi cảm động lắm. Từ những câu chuyện của họ tôi đã lắng nghe và biết được nhiều thứ rất hay và mới lạ như làm cách nào đóng hộp và giữ cho bông hồng nhung không hư hại, tươi lâu ngày để xuất cảng. Chuyện này đã làm cho tôi ngạc nhiên và thấy hãnh diện vì không ngờ xứ Đơn Dương và Đà Lạt có nhiều vườn trại trồng hoa hồng nhung có hương thơm bán được ra nước ngoài như Singapore, Hồng Kông… Nhân viên soát vé trên tàu thường là những bác lớn tuổi rất hòa nhã thân thiện, luôn miệng hỏi thăm mọi người và quan tâm đến sự an toàn cho hành khách. Sau này, nhớ lại tôi thấy họ đã làm nhiều hơn nhiệm vụ kiểm soát vé và giống như là hướng dẫn du lịch vì ngoài việc thông báo tên ga sắp tới, khi tàu sắp vào đường hầm hay lúc tàu sắp “thả móc” bám răng cưa để leo hay xuống dốc, họ còn giải thích rất tường tận khi có người hỏi về phong cảnh hay sự tích các địa danh. Cầm chiếc kềm bấm vé trên tay nhưng ít khi thấy sử dụng, tôi nghĩ có lẽ bác quen mặt hầu hết khách hàng và hiếm khi có người đi không mua vé. Càng lên cao cảnh đèo càng đẹp và ngoạn mục. Các ga tàu có kiến trúc bình thường nhưng đứng chênh vênh bên bờ vực trông hết sức đẹp và độc đáo. Tàu dừng không lâu nhưng cũng đủ thì giờ để mua những thứ trái cây thơm ngọt vừa chín tới là đặc sản của vùng cao này như nho, bơ, hồng, dâu tây… Chỉ có thể mua được khô nai ngon tuyệt ở các ga tàu trên tuyến đường này. Nó sẽ là món quà quí giá khi về lại thành phố.

 

Tàu lại hụ còi. Sắp đến ga Cần Răng rồi đây. Lòng tôi vui rộn ràng vì biết chú Hưng đang đợi tôi ở đấy. Lần nào cũng thế, tôi vừa bước xuống tàu là chú chạy ào tới, giằng lấy túi xách của tôi, cười hì hì, rồi khoác vai tôi đi ra xe. Chuyến xe lam về nhà đường dốc xe nổ máy giòn giã, dù chú nói lớn thật lớn nhưng tôi nghe tiếng được tiếng mất. Cứ nhìn chú vừa nói vừa cười, cười bằng miệng và mắt chú cũng cười, lòng tôi thật ấm áp với tình thân gia đình. Những ngày ở Đơn Dương với gia đình Dì Chú là những ngày vui khó quên. Ở nhà được Dì chăm lo từng chút, đi ra ngoài được chú Hưng hướng dẫn và lo liệu mọi việc. Thú vị nhất là những chuyến lên Đà Lạt. Chú thích đi xe đò cho nhanh còn tôi lại thích xe lửa vì xe chạy chậm rất an toàn và ngắm phong cảnh núi đèo thật đã mắt. Chú chiều ý tôi nên hai chú cháu thường đi xe lửa hơn. Đối với tôi đoạn đường xe lửa leo núi từ ga Cần Răng lên Đà Lạt thật là đặc biệt. Xe chạy chậm hơn và cũng ồn hơn. Nhiều người thấy phiền vì xe chạy “cà rịch cà tang”, bộ phận “móc răng cưa” va chạm gây tiếng nghiến thép nghe ghê ghê nhưng tôi lại thấy thích. Lúc ấy còn nhỏ quá làm sao biết được, sau này tôi mới hiểu và thán phục những kỹ sư Thụy Sĩ đã chế tạo được loại đầu máy hơi nước mạnh nhất thế giới chạy trên đường rầy thép thật cứng có thể chịu đựng sức ma sát rất cao. Đáng chú ý nhất là bộ phận “móc” giúp xe lửa lên xuống núi. Lòng hiếu kỳ khiến tôi muốn biết làm thế nào đoàn tàu nặng khủng khiếp có thể lên xuống mà không bị tuột hay lao xuống dốc núi. Mỗi lần đi xe khi nghe nhân viên soát vé báo “Tàu sắp thả móc đó nghe bà con” tôi chú ý lắng nghe tiếng động rộc rộc thật lớn vang lên dưới lườn toa tàu. Tưởng tượng, suy đoán nhưng không hiểu được cơ chế của bộ phận này. Tôi hỏi, chú Hưng cười hì hì “Lâu lâu mới đi một lần mày thấy lạ và thắc mắc. Còn tao đi thường quá, quen tai rồi nên không để ý ba cái lẻ tẻ đó”. Chú không để ý nhưng thằng nhóc tôi vẫn bị “ba cái lẻ tẻ” đó lôi cuốn và không chịu bỏ cuộc. Tôi đề nghị sau khi xuống ga đi bộ một đoạn dọc theo đường rầy có răng cưa để tìm hiểu đầu tàu “thả móc” ra sao, Chú vui vẻ đồng ý ngay. Hai chú cháu đi tới đi lui, bàn luận sôi nổi, nhưng không tài nào hình dung cái “móc” trong hai chữ “thả móc” làm việc ra sao. Chú an ủi tôi “Đừng thắc mắc nữa, mày ráng học, mai mốt làm kỹ sư thì biết thôi.

Những chuyến tàu hỏa Đơn Dương của tuổi thơ tôi thật khó quên như thế đó. Có chú Hưng cùng đi càng vui hơn. Chú là một tay tiếu ngạo, lúc nào cũng cười và pha trò cho mọi người chung quanh vui theo, và tôi nghĩ có lẽ không có gì làm cho chú ưu tư và buồn phiền. Trong gia đình cháu của chú đông lắm, chú thương đều mỗi đứa nhưng đối với thằng cháu khác họ là tôi chú cũng thương mến và quan tâm mới là đáng quí. Cái tài chọc ghẹo của chú cũng đáng nể lắm. Có câu chuyện vui tôi còn nhớ trong một chuyến xe lửa từ Đà Lạt xuống Cần Răng. Đi cùng toa xe có hai cô gái khá xinh tuổi trăng tròn, mặc đầm và cắt tóc ngắn. Dầu tôi chỉ dám liếc sơ và chú ý mái tóc thôi nhưng không qua được đôi mắt “cú vọ” của chú. Huých nhẹ tôi một cái, chú nói nhỏ “Thằng nhóc mày cũng mê gái nữa hả” Tôi chống chế “Không. Tôi chỉ nhìn mái tóc “demi garcon” của hai cô ấy thôi. Chú có biết kiểu tóc này bắt chước ai không?” “Tao thấy nhiều. Kiểu tóc thời trang này là của danh ca Sylvie Vartan người Pháp, đúng không? Ngay ở Đơn Dương cũng có nhiều nữ sinh cắt tóc kiểu này.” Nói xong, Chú nhìn tôi với vẻ làm bộ nghiêm trang, cười cười “Chắc tao phải đổi tên mày, gọi là Hiếu thì hay hơn.” Tôi biết chú sắp trổ tài chọc ghẹo nên cứ lặng yên lắng nghe vì biết không cần hỏi gì Chú cũng nói tiếp. “Mày là nhóc tì mà đã có bốn thứ hiếu là hiếu thảo, hiếu học, hiếu động và hiếu kỳ. Mai này lớn lên không chừng sẽ có thêm hai thứ nữa là hiếu tài và hiếu sắc. Hiếu tài thì không chắc nhưng hiếu sắc thì tao thấy mém mém rồi đấy.” Tôi phản đối liền nhưng Chú không nản chí, bảo tôi xòe bàn tay trái cho chú xem. Ngắm nghía xong Chú phán “Đúng là có hiếu sắc. Ha ha” Tôi chống chế “Chỉ tay làm gì có đường hiếu sắc.” Chú chỉ vào một đường trong bàn tay của tôi bảo “Đường này là chỉ tay đào hoa. Mày đồng ý không. Trên đời này có tên nào đào hoa mà không hiếu sắc.” Nói xong Chú cười lớn rất đắc ý, làm cho hai cô gái đối diện trố mắt ngạc nhiên. Nếu tôi có được số đào hoa thì hay quá. Đơn Dương Đà Lạt với thời tiết lý tưởng là quê hương của những cô nàng xinh đẹp da trắng tóc dài, má đỏ môi hồng. Có người yêu như thế ai mà không muốn. Suốt thời trung học mùa hè năm nào tôi cũng có mặt ở Đơn Dương. Khi nhập ngũ đáo nhậm đơn vị ở Đà Lạt. Lâu như thế mà có lọt được vào mắt xanh của mỹ nhân nào đâu mà nói là có số đào hoa. Bói trật quẻ rồi chú Hưng của tôi ơi !

 

Cái thú đi tàu hỏa theo tôi mãi cho đến bây giờ. Trong quãng đời ly hương khi đến nhiều thành phố xa lạ tôi vẫn tìm dịp đi xe tốc hành để nhớ lại những chuyến xe hỏa của thời niên thiếu. Tình hoài hương chưa bao giờ phai nhạt trong tôi. Ở những ga tàu tân tiến của thế kỷ 21 ông lão đã gần tám mươi là tôi vẫn còn bon chen lắm. Phải sắp hàng nhưng cố nhanh chân giành đứng đầu, và cũng thói quen xưa nhoài người ra ngoài chờ nhìn thấy tàu đến dù biết là con tàu sắp tới ga không phải là đoàn tàu với đầu máy hình ống tròn màu đen có ống khói phun lên cột khói trắng bay về phía đuôi tàu. Hồi đó, tôi hay bị chú Hưng rầy rà vì cứ đứng sát rìa sân ga quá và nhấp nhổm chờ tiếng còi tàu rúc lên nghe thật khoái tai rồi tàu xình xịch chạy đến, khi ngừng hơi nước còn thở phì phò. Biết con tàu sẽ đến với đầu máy màu sắc thật đẹp, hình dạng như đầu viên đạn để giảm sức cản không khí, chạy êm và nhanh như gió, vừa nhìn thấy dạng là nó đến không một tiếng động mà vẫn cứ chờ.

 

Bây giờ, nếu có về Đơn Dương thì tàu hỏa leo núi không còn nữa rồi. Hình ảnh đoàn tàu thân thiết của tuổi thơ tôi chỉ còn là hồi ức của quá khứ. Đường rầy đã bị tháo gỡ. Cả đến chiếc cầu cho đường xe lửa cũng không còn. Những nhà ga đông vui thuở xưa nay trở thành hoang phế và mục nát. Bảy chiếc đầu máy hơi nước đã bán cho Thụy Sĩ với giá đồng nát 650 ngàn đô la. Những đầu máy này sau khi trở lại cố hương đã được tân trang và hiện nay đang phục vụ chở khách du lịch tuyến đường núi ngắn với giá 60 đô mỗi vé. Công trình thực hiện tuyến đường sắt Tháp Chàm Đà Lạt dài có 84 cây số mà đã kéo dài tới 25 năm, khởi sự năm 1908 hoàn tất năm 1933, sử dụng loại đầu máy hơi nước mạnh nhất thế giới với bộ phận bánh xe răng chạy trên đường “răng cưa” để giúp tàu lên và xuống dốc núi an toàn. Đây là phát minh cơ khí tài tình và độc đáo vào thời điểm đó. Tính đến năm 1975 trên thế giới chỉ có hai nước có đường xe lửa leo núi là Thụy Sĩ và Việt Nam. Độ dốc của đường núi Đơn Dương Đà Lạt cao hơn cả Thụy Sĩ. Dựa theo những điều vừa kể có thể nói đây là một kỳ công của nhân loại, đáng được tự hào, giữ gìn và bảo quản như tài sản quí giá của quốc gia. Ngoài giá trị lịch sử công trình vĩ đại này còn mang lại lợi ích vô cùng lớn lao về kinh tế và nhân sinh cho đất nước. Bây giờ đã quá trễ và vô phương phục hồi. Kể nhau nghe chỉ để hoài niệm và luyến tiếc mà thôi.

 

-- Vĩnh Ngộ

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.