Hôm nay,  

Tháng Ba lại về

11/03/202321:17:00(Xem: 3186)
Tùy bút

Hoa


Tháng ba lại về, mùa xuân đang ngấp nghé bên thềm. Tuần trước những nụ hoa đào còn bé như hạt tiêu, ấy vậy mà giờ này lớn bằng đầu ngón út, những nụ hoa chi chít trên cành, có một số đã nở sớm phơn phớt sắc hồng trong nắng vàng ban mai dưới bầu trời xanh biếc.

 

Đất trời vốn thênh thang, giờ xuân lại về càng thêm phong quang rạng rỡ. Muôn hoa tô điểm cho đời, sắc hương nào chỉ để vui mắt, sắc hương còn là quả ngọt trái sai của mùa sau. Thiên hạ cứ bảo bướm ong lẳng lơ, ừ thì lẳng lơ nhưng không có bướm ong thì cũng không có mùa màng đâu nhé! Thiên hạ có không ít kẻ cười cợt bọn du tử mần thơ viết văn, cho là vô tích sự, tuy nhiên đời mà không có văn chương nghệ thuật thì con người chỉ có ăn, ở, mần tình hóa ra không khác gì con vật ư? hay chỉ là lũ người máy vô hồn? Bọn du tử chính là những tấm gương phản chiếu lại phong quang của trời đất, ghi nhận sắc hương của muôn hoa, vẽ nên bướm ong của thiên nhiên và cũng là của chính bản thân mình. Bướm ong thụ phấn cho mùa màng bội thu, bọn du tử “thụ phấn”cho những tác phẩm văn thơ ra đời để phục vụ sự hưởng thụ về mặt tinh thần của con người.

 

Mùa xuân về em vui trẩy hội, xúng xính áo xiêm, trai thanh gái lịch, đời vất vả nhọc nhằn nhưng cũng có lúc đẹp như mơ. Đời vô thường tử sanh liên lỉ nhưng những giây phút hiện tại ở nơi này hoan hỷ biết bao! Mùa xuân hải ngoại tận góc bể chân trời nhưng vẫn mang âm hưởng quê hương vì xuân trong tâm hóa hiện ra. Tiếng pháo đì đùng, tiếng pháo giòn tan, tiếng pháo rộn rã làm nao nức lòng người. Mùi thuốc pháo hăng hăng, mùi thuốc pháo nồng nồng. Khói thuốc pháo mù mịt chợt nhiên làm liên tưởng đến thuốc pháo làm sạm đen áo bào của đại đế Quang Trung trong mùa xuân Kỷ Dậu.

 

Đất trời phương ngoại phóng khoáng, tự do. Mùa xuân dường như bất tận, hoa nở bạt ngàn trên thảo nguyên, trên triền đồi, trên sườn núi… thảm hoa như kéo dài đến tận chân trời. Hoa dọc xa lộ, bên những cung đường quê. Hoa trên đường phố, trong sân vườn, bên thềm, trên bậu cửa... Thật khó có thể dùng bút mực để mô tả hoa xuân cũng như nỗi hân hoan của những gã du tử mê hoa. Thật sự thì đất trời phương ngoại mùa nào cũng có hoa, tuy nhiên khi xuân về thì mới tràn trề và viên mãn như thế này!

Đất trời tràn ngập hương sắc hoa, mùa xuân là mùa của muôn hoa, mùa của hồi sinh và mùa xuân cũng là biểu tượng của tuổi trẻ và hy vọng. Có gã du tử ngơ ngẩn trong đời vì mê hoa mà đã có lần khẩn khoản van nài chúa xuân:” nàng hãy ở lại đây, hãy ngự trị vĩnh viễn ở nơi này!”. Chúa xuân mỉn cười rạng rỡ thì thầm như gió thoảng mây bay:” Thế gian vô thường, vạn vật sanh diệt là lẽ tự nhiên, bốn mùa luân phiên thay đổi. Một khi ta ở lại nơi này vĩnh viễn thì nơi kia sẽ thế nào? Liệu có còn ý nghĩa mùa xuân? Và thiên hạ sao biết được cảm giác hân hoan khi xuân sang?” Chao ơi, gã du tử khờ khạo quá, vì chưng yêu thương mà sanh ra mê mẩn tâm thần nên mới van nài chúa xuân ở lại vĩnh viễn ở nơi này! Gã du tử đã quên mất tông chỉ mà sư phụ năm xưa đã nhắn nhủ:” Cầu không phải, không cầu cũng không phải, tự nhiên vốn là thế, chớ có cưỡng cầu!” Gã du tử còn ngẩn ngơ giữa cung đường xuân thì chúa xuân gởi lời trong gió thoảng hương xuân:” Một khi ta ở lại vĩnh viễn nơi này thì ta có còn là chúa xuân nữa không?”

 

Xuân của đất trời phong quang khiến lòng người hân hoan. Mùa xuân phương đông, mùa xuân phương tây có khác gì nhau chăng? Làm sao có chuyện ấy được! Ấy chỉ là mê của lòng người. Đất rộng trời cao, vũ trụ không ngằn mé, thiên nhiên vốn không hai… phân biệt, chẻ chia ấy là tại lòng người. Mùa xuân muôn đời tươi trẻ, mùa xuân bát ngát sắc hương hoa, bởi thế mà năm xưa thiền sư Mãn Giác đã bảo:” Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận”. Hãy nhớ nằm lòng nhé em! Làm sao mà hết xuân hết hoa cho được và cũng chớ bao giờ cho là hoa rụng khi xuân tàn. Xuân ý, xuân lòng, xuân tâm, xuân tưởng vốn vô tận kia mà! Đời hiện đại cũng có gã du tử tập tễnh mần thơ:

 

Xuân đất trời bây giờ mới đến

Trong lòng tôi xuân vốn đã lâu rồi.

 

Nói lời này e rằng cũng mê mất đi thôi! Làm gì có đến có đi, may mà còn chút vớt vát dường như ngấp nghé bờ mép nên mới thấy xuân từ lâu.

 

Người ta bảo xứ Phù Tang lấy hoa đào làm biểu tượng, ở đấy hoa đào đẹp lắm, chẳng biết có phải vì hoa đào mà má phấn phụ nữ xứ ấy tựa như hoa đào? Hay là hoa đào đẹp tựa má phấn gái xuân xanh?

Thành Ất Lăng này cũng là xứ sở của hoa đào, hoa đào có khắp mọi nơi từ núi rừng cho đến đồng quê, phố xá. Cứ mỗi mùa xuân, hoa đào bừng lên sắc thắm làm cả không gian hồng hào dưới nắng vàng trời xanh. Cánh hoa đào bay bay trong gió, rơi rơi trên thảm cỏ xanh. Những cánh hoa đào phơn phớt hồng và mịn màng như đôi má của những cô gái xuân thì, đẹp đến mê mẩn tâm thần. Văn chương thơ phú làm sao tả được đây? nét đẹp của cánh hoa đào, cái đẹp cùa má đào gái xuân xanh thì mỗi người tự cảm nhận chứ vô phương miêu tả.

 

Tháng ba lại về, chúa xuân không cần con người tụng ca, ngôn ngữ thế gian làm sao đủ để tôn vinh xuân? Ngay cả thanh âm và sắc màu của con người cũng không thể nào tả hết được cái đẹp, nét hân hoan và rạng rỡ của nàng xuân. Làm sao có thể dùng cái hữu hạn để nói cái vô hạn? khổ nỗi con người chỉ có chừng ấy thôi nên đành tạm mượn ngữ ngôn để tỏ chút tình hoài.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 0323)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.