Hôm nay,  

If You Are Not Happy...

28/03/202319:27:00(Xem: 3279)
Tạp văn

maple-tree

Hễ mỗi lần nghe nói ai mới qua định cư xứ tự do, mà họ bày tỏ lòng biết ơn, cảm kích với quê hương thứ hai, tôi cũng thấy mát lòng mát dạ sao á!

 

Như trường hợp vợ chồng chị bạn thân, là người chung nhóm với tôi ở trại tỵ nạn Thailand. Anh chị gặp nhau và yêu nhau ở trại, được làm phép hôn phối tại Nhà Thờ trại Panatnikhom. Nhưng họ không được may mắn, cả hai cùng lần lượt rớt thanh lọc, khi chị mới sanh đứa con đầu lòng.

Sau một thời gian nghĩ suy bàn bạc, chị ôm đứa con trai chưa đầy năm và cái bụng… mới có bầu lần nữa về nước, anh ở lại trại tỵ nạn, khu biệt giam, quyết chí tuyệt thực, mổ bụng chống đối hồi hương, vào ra bệnh viện cấp cứu mấy lần, cuối cùng vẫn bị cưỡng bách về Việt Nam khi trại tỵ nạn khắp Đông Nam Á chính thức bị xoá sổ.

 

Về nhà, anh chị buồn quá, đẻ thêm đứa nữa, lao vào buôn bán làm ăn kiếm sống, khá chật vật cho một gia đình với năm miệng ăn. Bên cạnh đó, anh liên lục lên văn phòng Toà Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn kiện cáo, đấu tranh, nộp đơn khiếu nại. Lý do vì gia đình anh thuộc diện “dân hư”, vượt biên và hồi hương, bản thân anh có trong danh sách “hồ sơ đen” vì từng chống đối chương trình cưỡng bách hồi hương và đặc biệt, anh là thành viên sinh hoạt rất tích cực của tổ chức “Việt Nam Quốc Dân Đảng” trong trại tỵ nạn, nên cả gia đình anh đã bị chính quyền Cộng Sản Việt Nam gây khó dễ khi trở về hoà nhập cuộc sống. Nhờ cố gắng, bền bỉ không nản lòng suốt mười mấy năm trời, “lên bờ xuống ruộng” với Văn Phòng Toà Đại Sứ Mỹ, kết quả là cả gia đình đã được phỏng vấn, được chấp thuận qua Mỹ định cư diện “chính trị đặc biệt” giữa năm 2012.

Nhận được tin, tôi vui sướng mấy ngày liền. Vừa qua đến California, anh phone ngay cho tôi:

 

- Tạ ơn Chúa! Gia đình anh chị đã được cứu vớt lên thiên đàng. À mà không, phải nói rõ hơn là được đưa từ địa ngục lên thiên đàng. Không còn từ ngữ nào diễn tả được niềm hạnh phúc này. Được hít thở không khí dân chủ, được tự do ngôn luận, được quyền làm người.

 

Chị cũng hào hứng không kém gì chồng:

 

- Ba đứa con của anh chị đã được đi học ngay lập tức, chẳng tốn một xu học phí nào, đứa nhỏ còn có xe bus đón đưa mỗi ngày. Có tưởng tượng chị cũng không dám nghĩ đến ngày này em ơi!

 

Anh vẫn còn say sưa niềm vui lớn lao:

 

- Anh hài lòng và mãn nguyện với những gì anh đã hy sinh, kiên nhẫn đợi chờ, bù đắp lại là tương lai tươi sáng của các con, đó là điều vô giá, không có bạc tiền nào so sánh được. Bao nhiêu người ở Việt Nam có tiền tỷ nhưng đâu dễ được qua đây cả nhà năm người làm công dân xứ Hoa Kỳ? Gia đình anh còn hơn trúng số độc đắc em ơi. Tạ ơn nước Mỹ, cám ơn cuộc đời!

 

Anh chị thay phiên nhau nói liên tục, có cho tôi mở miệng được câu nào đâu nà! Mà thôi, tôi có thể hiểu được nỗi niềm lâng lâng ngất ngây ấy, nhất là anh, cứ lập đi lập lại hai câu “trúng số độc đắc” và “anh chị là …triệu phú tiền đô và tỷ phú tiền Việt Cộng, chứ còn gì nữa, phải không em?”

 

Giờ đây, chị có công việc ổn định, đi làm Nails cho tiệm của một người bà con, làm cả ngày vẫn không biết mệt mỏi. Anh vì sức khoẻ yếu hơn sau mấy lần mổ bụng ở trại, nên chỉ đi làm parttime. Thằng con trai lớn, ngày xưa được sinh ra ở trại tỵ nạn, vừa ra trường về ngành Cảnh Sát, đứa con trai kế cũng sắp tốt nghiệp College và cô con út đang học Đại Học. Cuối tuần, anh chị dành thời gian lái xe ra vùng ngoại ô, ngắm cảnh, câu cá, nghỉ ngơi hoặc chăm lo vườn tược rau trái sân nhà.

 

Còn một trường hợp bên xứ lạnh tình nồng là hai người em hàng xóm cũ của tôi. May mắn thay, cách đây khoảng hơn chục năm, thời kỳ Canada mở cửa cho người vào định cư theo diện có tay nghề (không cần bằng cấp cao hay tiền bạc), mà họ được qua Winnipeg với sự bảo trợ của người cô ruột.

 

Lần gặp nhau ở thành phố Edmonton của tôi, nghe tụi nó rộn ràng tâm sự:

 

- Tụi em vẫn còn nghĩ mình nằm mơ chị à. Qua đây, con gái em đi học, nó thích lắm. Được thoải mái học hỏi những điều mới lạ, không phải lo sợ “sao đỏ học đường” theo dõi, không gò mình theo thành tích, chỉ tiêu. Hôm nọ chồng em bị đau ruột thừa, vào bệnh viện cấp cứu, được mổ và nằm viện mấy ngày, bác sỹ y tá chăm lo với trách nhiệm lương tâm và tình người. Trong bệnh viện có tủ lạnh có sữa, nước trái cây, yogurt, bánh mì, người nhà bệnh nhân nếu đói cứ việc lấy thoải mái, vậy mà khi xuất viện, tụi em chỉ việc xách giỏ ra về, không phải trả một đồng nào. Nói thiệt với chị, hai vợ chồng đi bộ ra bãi đậu xe mà không dám đi nhanh, vì nghĩ nếu họ quên thu tiền, nên có ý chờ họ kêu lại để trả viện phí.

 

Nhìn mặt chúng nó rạng rỡ như hoa mới nở, thấy thương ghê nơi. Tôi nói:

 

- Thì Canada nổi tiếng với chương trình Y Tế toàn dân mà. Còn công ăn việc làm thì sao, hai đứa có khó khăn gì không?

 

Hai vợ chồng phá lên cười, giành nhau nói:

 

- Xời ơi, chỉ sợ không đủ sức làm 2-3 jobs thôi chị! Ở xóm mình, em đã không ngại đi làm quán ăn, chồng em đi làm thợ hàn nóng nực cực khổ, thì qua đây chẳng có việc gì làm khó được tụi em hết á, chịu khó thì cái gì rồi cũng có.

 

- Vợ em ban ngày đi làm hãng thịt gà, chiều tối và weekends thì làm bánh trái thức ăn bán cho bà con đồng hương xung quanh kiếm thêm tiền, vì tụi em còn gia đình hai bên ở Việt Nam. Tụi em say mê đi làm trong niềm vui được lo cho người thân khi họ cần giúp đỡ, cảm giác đó hạnh phúc biết bao. Chúng em nhớ ơn Canada vô vàn, Canada thật tuyệt vời!

 

Cả hai trường hợp trên, họ đã mua nhà, ổn định cuộc sống, và việc trả nợ nhà cũng chỉ là vấn đề thời gian.

 

Ai cũng biết, quê hương mình, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, vẫn là đẹp nhất. Nhưng khi quê hương bị tàn phá bởi độc đảng, bất tài, tham nhũng, hèn ác thì người dân đành dứt áo ra đi, dẫu biết cuộc đánh đổi nào cũng có mất mát, hy sinh.

Vậy mà có một số người, sau khi mỏi mòn chờ đợi, trầy trật để qua được xứ tự do, thì cứ than vắn thở dài, như là bị “trời đày”, thậm chí còn chê bai này nọ. Nếu họ là người già cả, như cây cổ thụ bị bưng gốc qua xứ khác không thể thích nghi, thì có thể thông cảm. Còn nhiều người, tiếc thay, lại than vãn những chuyện vớ vẩn, thậm chí chỉ vì tiếc món bún riêu cua đồng, bún mắm, ốc bươu luộc chấm mắm gừng, trà sữa, bánh tráng trộn… Trời ạ, có cho không biếu không tôi mấy món “Ma-dzê in Việt Nam” đó, tôi cũng xin phép “no, thanks!”.

 

Tôi có một bác họ xa, trước đây được con cái bảo lãnh qua Mỹ từ thập niên 80s. Mấy năm trước vợ bác qua đời, bác quyết định về Việt Nam sinh sống với số tiền hưu rủng rỉnh, vì bác nhớ quê nhà, nhớ chòm xóm thân yêu, nhớ cảm giác mỗi sáng bước ra ngõ ngồi nhâm nhi ly cafe và tô phở nóng, xem thiên hạ đi qua đi lại cũng thấy vui. Rồi dịch Covid bùng nổ, bác loay hoay thấp thỏm mãi bên Việt Nam vẫn chưa có cơ hội được chích vaccine, và may mắn thay, bác đã kịp bay về Mỹ chích vaccine trước khi cơn dịch tàn phá bao người dân Việt Nam vô tội vì bọn chính quyền chỉ giỏi nổ nhưng ngu và tham trên cả mạng sống của người dân.

Bác tâm sự, tôi cứ nghĩ về Việt Nam hưởng tuổi già cuối đời, nhưng vài lần phải vào bệnh viện xếp hàng chen chúc chật chội, nếu không có “phong bì” sẽ bị quát tháo, ghẻ lạnh, nay thêm vụ Covid vaccine đã cho tôi thức tỉnh. Lần này tôi thề sẽ không bao giờ rời bỏ quê hương thứ hai của tôi nữa.

Mong rằng bác giữ lời hứa, cũng như xưa kia nhiều người xuống tàu vượt biên, trước bàn thanh lọc phỏng vấn cũng thề hứa đủ điều …À mà thôi, chuyện đó sẽ nói sau, trong một bài viết khác.

 

Riêng tôi, hễ nằm ngủ mơ thấy ngôi nhà cũ cùng cha mẹ anh chị em ruột rà, hàng xóm thân thương, hoặc kỷ niệm dưới mái trường với bạn bè, với người xưa thì không sao. Chớ đêm nào mơ thấy “màu vàng xanh” của mấy tên công an khu vực, “màu xám đặc cán mai” của các cán bộ mặt mỡ bụng phệ chèn ép người dân, “màu tương lai tối thui” của đồng bào Thủ Thiêm, Lộc Hưng, hoặc “màu đỏ máu” của màn “tự té lầu” trong nội bộ “đồng chấy đồng rận”… là mồ hôi hột của tôi vã ra như tắm. Bừng tỉnh dậy sau cơn ác mộng, nhìn qua cửa sổ thấy tuyết đang rơi, nhéo người cùng giường một cái cho chắc ăn, tôi mới hoàn hồn sung sướng, biết mình đang ở Canada.

 

Tôi bỗng nhớ câu nói nổi tiếng của một Tổng Thống Mỹ từng nói cách đây không lâu: “Không ai ép buộc các bạn phải đến Mỹ cả, nếu bạn không hài lòng với đất nước mới này, bạn có thể rời khỏi nơi đây!”

Còn câu nói sau đây là của… tôi:

 

“Tôi thề, sẽ không năn nỉ níu kéo, và sẽ tiễn bạn ra đến tận cổng phi trường”.

 

Xin thề!

 

– Kim Loan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.