Hôm nay,  

Tiếng nói

03/04/202309:02:00(Xem: 3613)
Truyện

sunset

Ngày Thước bước ra, nàng không mang theo bất cứ thứ gì nàng đã sắm trong tám năm. Nhờ nàng, Thụy có ê hề những thứ nàng để lại, nào bàn, ghế, sô pha. Những TV nhỏ, lớn. Những hình, ảnh, những giỏ hoa, nàng thường để trên bàn trang điểm, vẫn còn.
     Cái bàn trang điểm để lại trong phòng ngủ. Thụy nói với Ngà. Em xài cái bàn này đi, em hãy ngồi ít nhất, mỗi sáng, cũng từ ba mươi phút tới một tiếng đồng hồ trước gương, soi mặt, rồi lựa chọn màu son nào tươi nhất, màu kem nào tốt nhất, thoa lên mặt, rồi đánh phấn hồng lên cho da mặt em thật mịn, thật nhuyễn. Anh định nói thêm, như Thước ngày xưa ấy. Nhưng Thụy chợt tỉnh lại và ngưng ngay.
     Ở trên chiếc bàn này, Thước đã ngồi hàng giờ, thong thả tỉa từng sợi lông mi, tỉa thật kỹ, chà xát gương mặt để rồi quay lại hỏi anh. Đẹp hôn? Đẹp há! Anh nói. Đẹp lắm. Giọng cô gái miền sông nước, miền tây, ngọt ngào như mía. Lúc đó nàng mới thu dọn đồ nghề, thay quần áo đi làm.
Bây giờ không còn Thước nữa, mà là Ngà. Ngà đã bước vào đời anh, thế chỗ Thước vừa bước ra.
Chuyện xảy ra hằng ngày trên cái bàn trang điểm, làm sao anh quên, nên bây giờ Ngà ngồi lên, anh lại tưởng Thước. Tưởng thôi. Thước đã nổi trôi, đã lềnh bềnh, dập dềnh, mọi lúc, mọi nơi, trong trí nhớ Thụy, trong giấc ngủ Thụy, kể cả trong giấc mơ của Thụy nữa.
     Anh nói tiếp với Ngà, chiếc bàn này đẹp chứ em, của vợ người bạn, gia đình nó dọn đi xa, định cho Good Will, anh thấy đẹp nên mang về. Ngà ngồi lên cái ghế có lót tấm vải nâu mềm. Nàng có vẻ sung sướng, hạnh phúc, hí hửng. Nàng nói, cái ghế ngồi êm lắm. Em thích.
     Ngà đến với anh là sự tiếp nối, như một chương tiếp theo trong cuốn tiểu thuyết đời... Khi mất Thước rồi, anh thấy đàn bà sao mà quý giá. Mất nàng như mất hết. Kiếm một người khác bằng hay thấp hơn một chút, cũng khó khăn quá.
     Đàn bà thật dễ tìm, mà cũng thật khó. Anh đã đứng hàng giờ trong những cái chợ, nhìn người. Trong quày bán trái cây, nhiều cô, bà, mặt hoa da phần, áo quần bảnh bao, "mốt miết" không thể tả. Họ đang đứng bên quầy trái cây. Những bịch nho tươi, trái lớn. Các bà (cô) đẹp đẽ ấy, mở bọc nhựa ra, rồi vừa bốc từng nhúm bỏ vào miệng nhai (ngồm ngoàm), rồi tìm trong đó những nhành nho to nhất, chắc nhất, và ngọt nhất, có lẽ thế, bỏ vào một bọc khác để sẵn. Xong, cầm lên lắc lắc. Sau khi đã chắc ăn một trăm phần trăm là bịch nho mình lựa mua là ngon hết sẩy, mới đi qua quầy khác. Tiếp tục đến hàng trái bơ. Cô (bà) đứng lại, lục tìm trong đống bơ tươi vừa đổ xuống, lúc lạo, tìm tận dưới đáy, cầm một trái lên, lại bấm, lại lắc lắc, đưa vào tai nghe có đặc hay rỗng. Lại nhấc lên, để xuống, rồi cầm lên trái khác. Xong, mới bỏ vào bọc ni lông của mình. Chỉ nội mua bịch bơ khoảng 5, 7 trái, thế mà cũng mất cả chục phút. Thụy nhìn và nghĩ. Các cô, (bà) này mà về với anh, anh sẽ mệt lắm vì sự quá  kỹ tính.
     Hay vào trong các Mall, nhìn các cô lựa quần áo, giày giép, son phấn, nữ trang... Hay vào các nhà ăn uống, các cô (bà) ngồi ăn uống (nhồm nhoàm), nói năng cười cợt to tiếng, như chỗ không người, anh lại lắc đầu ngao ngán. Lại tưởng tiếc tình yêu đã qua, tưởng tiếc Thước đã xa bay...
Cho nên, chuyện tưởng dễ mà khó. Anh chỉ cần có tiếng nói trong căn nhà này, tiếng nói con người, chứ không từ radio, CD hay cassette. Mà con người. Anh nghĩ đến những người đàn bà chỉ biết có mình. Ăn, uống, nói, luôn miệng ca tụng mình, gia đình mình, anh chị em mình... và nổ, nổ văng miểng, như từng ở bên kho đạn Long Bình, thành Tuy Hạ ngày nào, thì chán mớ đời.
     Cái anh cần là một-người-con-gái-khác.
     Khi Thước bước ra, cái khoảng trống trong anh sâu hun hút. Anh tưởng sẽ suốt đời trống, trống hoác, như cái mạch nước đã vỡ, tràn nước ra, khó tìm một cái nút gì để đậy lại, cho nước ngưng tràn. Thế mà em đã đến, đã xuất hiện, phủ chụp lên anh. Đó là Ngà.
 
***
 
Chị Hân bên tiểu bang lạnh trong một buổi họp mặt thân hữu, đến gần Thụy và ôm chầm lấy anh:
     – Thụy phải không, phải không, phải không?
     Thụy đáp lại với vẻ ngơ ngác:
     – Xin lỗi.
     – Chị là chị Hân, vợ anh Phòng đây, ở miền bắc về dự.
     Thụy ôm chầm lấy chị:
     – Ô! chị Hân, chị còn trẻ quá, em nhìn không ra, cũng mấy mươi năm rồi.
     Thế là hai chị em nhìn lại nhau sau gần ba mươi năm biệt xứ. Cũng may có những cuộc hội ngộ như thế này. Chị Hân cầm tay Thụy lắc lắc:
     – Thụy cũng vậy. Em cũng còn quá trẻ mà. Vợ con đâu mà đi sô-lô một mình?
     – Hết rồi chị ơi! Hiện em sống một mình.
     Chị Hân ngẩn người. Thụy là em bà con xa với chị, hồi nhỏ hai chị em chơi thân với nhau, cùng một làng quê, cùng một xóm quê, chơi ô ăn quan, cò cò, u mọi. Rồi thời gian, rồi chiến tranh, rồi biển dâu... Đủ mọi thứ... Mấy mươi năm cho một đời người.
     – Sao tội vậy em, ở xứ này mà sống một mình chịu sao nổi, để chị giới thiệu cho.
 
***
 
Ngà ở một tiểu bang xa, rất xa, nếu đi bằng máy bay nội địa giá rẻ, thì có thể hơn 5 giờ bay. Nhưng Thụy không đến đó. Anh chỉ nói chuyện qua phôn. Anh như con gà trống, bới đất, xù lông xù cánh, rồi gáy lên o o:
     "Em à. Anh độc thân, sống một mình từ mấy mươi năm nay. Bây giờ nhìn lại đời sao thấy vô vị quá. Sao mình lại thui thủi thế này. Có ai biết nỗi cô đơn của anh không? Sống? Đồng nghĩa với vui vẻ, hạnh phúc, mà sao anh chưa có được những ngày vui. Em đến với anh đi. Hai tâm hồn, hai cuộc đời, cô đơn, nhập vào nhau làm một, đi em, như người ta vẫn thường nói. Hãy tìm một nửa của nhau. Đã lâu rồi, anh tìm mãi tìm hoài mà không ra, bỗng dưng, dây tơ hồng nào đưa em đến với anh. Đúng em là một nửa của anh rồi."
     Rồi anh gởi nàng qua phôn, hàng chục bản nhạc tình, trong đó có những bản như, Bài tango cho em, của Lam Phương, Từ ngày có em về, nhà mình toàn ánh trăng thề. Giòng nhạc tình đang tắt lâu, tuôn trào ngọt ngào như giòng suối. Lời bản nhạc tự tình, rộn ràng, hy vọng, lạc quan, yêu đời. Hay bản Tôi còn yêu, tôi cứ yêu của Phạm Duy, Tôi còn yêu, tôi cứ yêu! Tôi còn yêu, tôi cứ yêu! Tôi còn yêu mãi mãi mãi, tôi còn yêu đời, tôi còn yêu người, tôi còn yêu tôi!
     Ngà nhận tới tấp những lời phủ dụ đó, nàng chấp chới, nửa tin nửa ngờ. Tình đâu từ trên trời rơi xuống vậy cà? Nhưng niềm tin là một sự lặp đi lặp lại, nhứt cự ly, nhì tốc độ. Anh thì quấn lấy, vơ vào. Nàng thì lần đầu tiên gặp "người đâu lì như con chi chi", cứ hai, ba tiếng đồng hồ là điện thoại reo, và khi nàng áp tai vào điện thoại, thì tiếng chàng trầm xuống, em yêu, anh nhớ em quá. Tiếng nói chàng đã đánh động tâm hồn nàng, tâm hồn đã nằm im tiếng suốt bốn mươi năm. Trước đây, tình yêu với nàng, nàng thấy thật mơ hồ, nào công việc, nào chăm lo sức khỏe cho cha mẹ, nào những đứa em. Nó đã chiếm hết ở nàng một phần đời. Bây giờ cha mẹ đã mất, nàng bơ vơ thấy rõ, con bơ vơ trên cõi đời này quá! Anh em, chị em làm sao bù đắp được khoảng trống của lòng con. Bỗng dưng chị Hân gọi điện thoại. Ngà ơi! Em đón nghe điện thoại của chàng trai này nghe. Chị nghĩ em sẽ vui. Và chuyện gì tới đã tới.
     Tuyết và gió ở một tiểu bang lạnh đã làm nàng sợ. Sợ cái lạnh đến thấu xương. Chàng hằng ngày vẫn phủ dụ nàng "như con gà trống bới đất rồi gáy o o", em qua đây, miền này ấm áp như quê mình, như Đà Lạt, như Nha Trang... Qua đi em, qua với anh đi em. Anh thề sẽ yêu em mãi, mãi mãi.
     Thế là nàng qua.
 
***
 
Mỗi khi ôm Ngà trong tay, mắt Thụy lim dim như tận hưởng một hạnh phúc. Mùi thơm từ da thịt, từ lotion, từ nước hoa tỏa ra ngào ngạt. Mà thật lạ lùng, sao Ngà lại hao hao giống Thước ngày xưa nhỉ, mái tóc dài, gương mặt trái xoan, nụ cười hiền hòa... Nhiều lúc như vậy, anh cứ ngỡ ngàng gọi Thước, nhưng anh dừng lại. Hai hình bóng cứ chập chùng, thay qua đổi lại. Ngà nói, áo anh dính cà phê rồi nè, để em đem vào restroom giặt cho, để lâu giặt không ra đâu anh. Anh này hiệt tình. Rồi Ngà ngồi vụt dậy, ra khỏi vòng tay Thụy, đem giặt ngay chiếc áo.
     Những buổi sáng trong veo, gió lạnh, anh ôm choàng qua bên, thấy trống vắng một khoảng giường nằm. Thụy biết Ngà đã dậy, đã xuống bếp chế cà phê, nấu cháo, nấu "ốt miu", giặt sạch chiếc khăn lau mặt bằng nước nóng, sửa soạn kem đánh răng để sẵn trên sink. Lúc Thụy trở dậy, tiếng Ngà nhè nhẹ bên tai, anh dậy rồi hả, ngồi chút trên giường rồi hãy đi, cẩn thận nhe anh. Nhiều lúc nàng vào dìu anh đứng lên, hơi ấm tỏa lan, mùi hương tóc, hương da thịt. Anh trầm mình vào trong niềm yên vui nhẹ nhàng khó tả đó.
     Những điều đó đã đi quá những ước mơ chàng. Ước mơ chỉ cần tiếng nói, tiếng người, trong căn nhà nhỏ này. Nhiều buổi sáng dậy sớm, nghe tiếng ho của ai đó ở nhà hàng xóm, một bà Mỹ già hay bà Việt Nam già? Anh chợt thấy mình đắm chìm trong niềm vui. Anh nghĩ như mình đang như đang ở một xóm nhỏ ở phường 6, Tân Bình ngày xưa cũ, hay ở Xóm Mới, Gò Vấp... Hay xa hơn, như tuổi thơ anh, trong căn nhà cha mẹ ở chợ Quán Rường, sáng ngủ dậy, đã nghe lao xao tiếng người. Người mẹ tất bật đi làm đồng, vào trong giường lay gọi, cu em, dậy chuẩn bị rửa mặt, ăn uống, rồi đi học, con. Sáng rồi đó. Mấy củ khoai lang mẹ để ở chạn bếp lấy ăn nghe. Dậy đi con, trưa trờ, trưa trật rồi.
     Rồi những buổi trưa nơi xóm quê kia, trên đường đầy nắng, nắng chạy loanh quanh trong những khu vườn, bay tít lên những ngọn cây cao, trên đó có những con chim đứng im tránh cái nắng, mắt lim dim như ngủ, những con chim cu cất tiếng gù gù nhau. Tiếng chim se sẻ bay vòng quanh mái nhà, những con chim chiền chiện, ơi chao!
     Anh chợt nhớ câu thơ:
     Một buổi trưa không biết ở thời nào
     Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
     Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ
     Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự.
     (Huy Cận)
     Anh lại nghĩ, Ngà đã đem lại cho anh không những là tiếng người, mà đem lại cả một vùng quê tuổi nhỏ, khu Đồng Cát, chợ Quán Rường, con đường tỉnh lộ, những người nông dân chân lấm tay bùn, những bà Đương, bà Sử, bà Trà. Các chú Tham, chú Yên, chú Đàn, những thầy giáo Sam, thầy Khánh. Cả một vùng quê tuổi thơ bát ngát trong lòng anh. Sống dậy trong anh... bát ngát.
     Tiếng nói làm vui cả một căn nhà, nó ríu rít trong từng ngõ ngách, trên từng bữa ăn, có món rau muống luộc, có gỏi gà trộn bắp chuối, tiếng nói, tiếng nói em, tiếng nòi quê kiểng anh ngày xưa.
     Thước chỉ còn về trong những giấc mơ, thoáng qua trong trí tưởng, tim anh không còn bị nhói đau như trước nữa. Như ngày trước, mỗi khi nhớ Thước, anh đã nhói đau như có trăm ngàn mũi kim đâm vào da thịt, ánh mắt đó, nụ cười đó bây giờ đã thay bằng đôi mắt Ngà, trong veo. Thụy nghe như vang trong hồn âm thanh nhỏ nhẹ:

     – Mai anh thích ăn gì, em nấu, nhe anh…

 

– Trần Yên Hòa

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng Năm là tháng vinh danh những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho đất nước Hoa Kỳ mà trong đó tất nhiên có người Mỹ gốc Việt. Những đóng góp của người Mỹ gốc Á Châu và các đảo Thái Bình Dương cho Hoa Kỳ bao gồm rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế, chính trị đến văn học nghệ thuật, v.v… Nhưng nơi đây chỉ xin đề cập một cách khái quát những đóng góp trong lãnh vực văn học của người Mỹ gốc Việt. Bài viết này cũng tự giới hạn phạm vi chỉ để nói đến các tác phẩm văn học viết bằng tiếng Anh của người Mỹ gốc Việt như là những đóng góp nổi bật vào dòng chính văn học của nước Mỹ. Điều này không hề là sự phủ nhận đối với những đóng góp không kém phần quan trọng trong lãnh vực văn học của Hoa Kỳ qua hàng trăm tác phẩm văn học được viết bằng tiếng Việt trong suốt gần năm mươi năm qua.
Vì hình ảnh ảm đạm, buồn sầu, như tiếng kêu đòi tắt nghẹn. Tôi, tác giả, đi giữa lòng thủ đô Hà Nội mà không thấy gì cả, không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Cờ đỏ là quốc kỳ. Mưa sa làm cho những lá quốc kỳ sũng nước, bèo nhèo, nhếch nhác, úng rữa. Một hình ảnh thảm hại. Hình ảnh thảm hại là dự phóng cho tương lai thảm hại. Và thất bại. Lạ một điều, người ta chỉ trích dẫn năm dòng thơ này, tổng cộng 14 chữ, mà không ai trích dẫn cả bài thơ, và hẳn là hơn 90% những người biết năm dòng này thì không từng biết, chưa bao giờ đọc, cả bài thơ, và tin rằng đó là những lời tâm huyết của nhà thơ Trần Dần nói về thời cuộc mà ông nhận thức được vào thời điểm 1955.
Viet Book Fest cho thấy thế hệ trẻ gốc Việt nay đã vượt qua được những ràng buộc cơm áo gạo tiền của thế hệ đi trước, để cộng đồng Việt nay có thể vươn lên với giấc mơ văn học nghệ thuật trên đất nước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
Hư vỡ là đặc tính bất biến của cuộc đời, của tất cả những gì có mặt trong vũ trụ này. Nghĩa là những gì hợp lại, thì sẽ tan; những gì sinh ra, rồi sẽ biến mất. Không có gì kiên cố, bất biến trên đời. Đức Phật đã chỉ ra sự thật đó, và biến những thái độ sống không vui thành sự kham nhẫn mỹ học: cái đẹp chính là vô thường. Bởi vì vô thường, nên có hoa mùa xuân nở, có những dòng suối chảy từ tuyết tan mùa hè, có những trận lá mùa thu lìa cành, và có những trận mưa tuyết mùa đông vương vào gót giày. Bởi vì sống hoan hỷ với hư vỡ là tự hoàn thiện chính mình, hòa hài làm bạn với hư vỡ là sống với sự thật, và cảm nhận toàn thân tâm trong hư vỡ từng khoảnh khắc là hòa lẫn vào cái đẹp của vũ trụ. Và sống với chân, thiện, mỹ như thế tất nhiên sẽ đón nhận được cái chết bình an.
Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay? Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi. Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu. Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.
Ngày 30 tháng 4 năm nay, 2024, đánh dấu 49 năm ngày Sài Gòn thất thủ vào tay cộng sản Bắc Việt (30 tháng 4 năm 1975). Biến cố này đã mở ra một tương lai đen tối cho dân tộc Việt Nam mà một trong những hệ lụy thảm khốc nhất là hàng triệu đồng bào đã bỏ nước ra đi tìm tự do, trong đó có khoảng hơn 400,000 người chết thảm giữa lòng biển cả. Cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài trong 20 năm đã khiến cho hơn 950,000 bộ đội và thường dân miền Bắc chết và khoảng 600,000 lính cộng sản bị thương. Trong khi đó, có khoảng hơn 700,000 thường dân và binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa thiệt mạng, cùng với 1,170,000 lính VNCH bị thương. Phía Hoa Kỳ có 58,281 binh sĩ tử thương và 303,644 lính bị thương. Đó là chưa kể số thương vong của binh sĩ các nước tham chiến ở hai miền Nam-Bắc, theo www.en.wikipedia.org.
Thế giới đang bùng nổ nhiều cuộc chiến tranh, và đang ngún lửa ở nhiều nơi khác: Trung Đông, Ukraine, Miến Điện, Đài Loan, Biển Đông… Một thời Việt Nam cũng đã trải qua nhiều cuộc binh lửa. Khi đọc kỹ Tam tạng Kinh điển, chúng ta cũng sẽ thấy có những cuộc chiến. Bản thân Đức Phật khi mới lớn cũng học kỹ thuật kiếm cung. Trong nhiều kiếp quá khứ, Đức Phật, khi còn ở cương vị Bồ Tát, cũng đã từng ra trận. Nhiều hình ảnh ẩn dụ trong kinh điển cũng cho thấy dấu tích chiến tranh: ngựa chiến, voi chiến, áo giáp, mũi tên… Và rồi tận cùng, Đức Phật nói trong Kinh SN45.7 rằng chiến thắng vinh quang nhất chính là nhiếp phục tham, sân, si – nơi đó chính là Niết Bàn. Đó là mặt trận lớn nhất, gian nan nhất.
Vào ngày 6 tháng 12, 2023, nhà thơ, nhà văn, giáo sư văn học và nhà hoạt động xã hội được yêu mến người Palestine Refaat Alareer đã thiệt mạng trong một cuộc không kích từ Israel cùng với người anh, em gái và bốn đứa con của họ. Trong tuần để tang kể từ đó, những lời tri ân dành cho cuộc đời, sự nghiệp viết lách và các hoạt động nghệ thuật tích cực của Alareer đã tràn ngập khắp nơi trên thế giới. Nhiều lời tri ân được đăng cùng với bài thơ cuối cùng “Nếu tôi phải chết” được ông đăng trên Twitter của mình vào ngày 1 tháng 11 năm 2023. Cho đến nay, bài thơ chia tay như một điềm báo đau lòng của Alareer hiện đã được dịch sang hơn 40 thứ tiếng; được đọc trên các sân khấu thế giới và được viết trên các bức tường sân ga tàu điện; được in trên các biểu ngữ, bảng hiệu, cờ và diều, được giương cao trong các cuộc biểu tình đòi ngưng bắn trên khắp thế giới.
Nhà xuất bản của Ocean Vương trên Marketplace cũng như Ocean Vương trên Instagram của mình đã thông báo về cuốn tiểu thuyết mới sẽ được xuất bản vào tháng 6 năm 2025, Emperor of Gladness. “Emperor of Gladness” là cuốn tiểu thuyết thứ hai của Ocean Vương, “kể về một năm trong cuộc đời của một thanh niên ương ngạnh ở New England, người tình cờ trở thành người chăm sóc cho một góa phụ 82 tuổi bị mất trí nhớ, tạo nên câu chuyện về tình bạn. sự mất mát và mức độ chúng ta sẵn sàng mạo hiểm để đòi hỏi một trong những ân huệ quý giá nhất của cuộc đời: cơ hội thứ hai.”
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt: 9 Phong Khí Văn Chương” của Bùi Vĩnh Phúc là những trang sách phê bình văn học độc đáo, nơi đây 9 người cầm bút nổi tiếng của Miền Nam – Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên – được chiếu rọi trên trang giấy rất mực trân trọng, công phu, phức tạp, và nổi bật là kiểu phê bình văn học rất mực thơ mộng của họ Bùi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.