Hôm nay,  

Mẹ ơi!

13/05/202321:16:00(Xem: 3510)
Tùy bút Mother's Day

IMG_5439


Gửi đến Mẹ tình yêu của con

Mong Mẹ nơi xa ấm linh hồn

Đời con kể từ khi vắng Mẹ

Chẳng còn nỗi buồn nào buồn hơn

 

Trong tám anh chị em tôi, Mẹ cưng chiều tôi nhiều hơn, có lẽ vì tôi thuộc nhóm út ít và… dữ như bà chằng (ai biểu Mẹ sinh ra tôi với cái mũi tẹt và cái trán dồ làm chi!).
     Đi đâu Mẹ cũng đưa tôi theo, hoặc do tôi đòi theo, thì dù có bận rộn thế nào mẹ cũng cho đi, còn hơn là để con bé đùng đùng giãy khóc. Buổi sáng hai mẹ con thường ra chợ nhỏ trong xóm, mấy bà bán hàng nhìn thấy hai mẹ con, gọi đùa tôi là  “bé Tẹt cục vàng” của Mẹ, khiến tôi hãnh diện vênh vênh cái mặt tròn như bánh cam với mái tóc muỗm dừa. Trong lúc Mẹ lo chuyện chợ búa thì tôi tha hồ ăn hàng, các bà bán hàng quen Mẹ nên bán quà cho tôi hậu hỉ hơn người khác.
     Thỉnh thoảng Mẹ dẫn tôi bắt taxi ra Sài Gòn đến ngân hàng Việt Nam Thương Tín gửi tiền rồi ghé qua Chợ Bến Thành mua sắm. Đi chợ xa, như cá gặp nước, tôi đòi Mẹ mua các thứ “thời trang” điệu đà. Mới 7-8 tuổi đầu, mà tôi có đầy đủ: guốc gỗ bước đi nghe lộc cộc, áo dài màu vàng, cây dù đỏ chói loá, bóp đầm màu hồng tía, và cả đôi mắt kiếng “thời thượng”, đó là chưa kể bông tai, dây chuyền vàng (giả) đeo khắp người.
     Mỗi lần mua sắm lung tung như thế, về đến nhà, hai mẹ con phải canh chừng nếu có anh Hai của tôi ở nhà thì sẽ... né. Anh đang học Đại Học Khoa Học, anh rất siêng năng chăm chỉ vì quyết chí vào Y Khoa. Anh thường ngồi ngay chiếc bàn giữa nhà, anh nhét bông gòn vào hai lỗ tai để khỏi phải nghe những tiếng động xung quanh. Anh cúi đầu vào sách vở, dùng hai bàn tay che hai bên mắt để tập trung toàn bộ chuyện học hành. Tôi đứng thập thò ngoài cửa với những túi đồ mới sắm, Mẹ rón rén vào trước, nếu thấy anh không nghe biết gì, Mẹ vẫy tay ra dấu, lúc ấy tôi mới từ từ, nhẹ nhàng lách vào nhà, tới cầu thang leo lên gác coi như …thoát nạn thành công.
Anh Hai hay phàn nàn Mẹ chiều con Tẹt quá, mua sắm cho nó đủ thứ mai mốt nó sẽ quen thói đua đòi và với tôi thì anh nghiêm trang răn dạy, kể cả đe dọa bắt quỳ gối đánh đòn nếu tôi vẫn vòi vĩnh Mẹ. Mỗi lần bị anh Hai mắng, tôi tìm Mẹ để khóc bắt đền. Mẹ lại dỗ dành và hứa hẹn lần sau Mẹ sẽ mua cho tôi… nhiều hơn.
     Có lần, Mẹ tiễn tôi ra cửa đi học. Trường cách nhà một con đường nên tôi đi bộ đến trường. Mẹ cho tôi 2 đồng như thường lệ để ăn quà, hôm đó tôi lại xin 5 đồng để mua thêm món đồ chơi, lần này Mẹ không chiều tôi vì tôi đã có một mớ đồ chơi còn cất dấu trên gác. Tôi vùng vằng trả lại Mẹ 2 đồng và bước đi. Được vài bước, tôi nghe Mẹ gọi với theo: “ Tẹt ơi, quay lại lấy 5 đồng đi con!”
     Mẹ đã chịu thua tôi, thế mà tôi vẫn giận Mẹ, lầm lì bỏ đi một mạch, không thèm 2 đồng hay 5 đồng, mặc kệ Mẹ đứng đó nhìn theo.
     Mẹ đổ bệnh vào thời điểm tháng tư 1975, ngay như bà chị Cả mới hơn hai mươi tuổi đầu còn chưa hiểu thấu, huống gì những anh chị em còn lại, ở tuổi xấp xỉ nhau, “ăn chưa no lo chưa tới”. Rồi Sài Gòn bị “giải phóng”, căn bệnh của Mẹ không phải là bệnh hiểm nghèo, nhưng trong lúc xã hội nhiễu nhương, bệnh viện thiếu thốn từ bác sĩ đến thuốc men nên Mẹ đã ra đi khi tôi vừa chín tuổi. Ở cái tuổi còn quá ngây thơ, tôi đã khóc khi biết mình mất Mẹ, nhưng nỗi buồn cũng thoáng qua mau.
     Đêm cuối cùng trước khi Mẹ được đem ra nghĩa trang, tôi nằm ngủ trên gác, trong chiếc mùng rộng với một số anh chị em họ hàng khác. Chúng tôi nằm chồng chéo, ngổn ngang vì mệt nhoài của những ngày đám tang. Nửa đêm trong cơn mộng mị, tôi thấy Mẹ vén mùng, vào đắp mền cho tôi như mọi khi, nhưng lần này Mẹ mặc áo dài, tà áo dài của Mẹ, màu dưa cải bằng vải “tê tơ rông” mềm mại, lướt trên người tôi êm ái, phảng phất một mùi hương quen thuộc, mùi của Mẹ. Mẹ cúi xuống ngắm khuôn mặt tôi rất gần, hình như Mẹ muốn ôm tôi. Nhưng tôi bỗng choàng tỉnh dậy vì những tiếng động dưới nhà chuẩn bị cho buổi lễ di quan, đưa tôi trở về thực tại, và tôi nhận ra chiếc áo dài hồi nãy trong mơ chính là chiếc áo dài Mẹ đang mặc trong quan tài. Thế là tôi bật khóc nức nở như chưa bao giờ được khóc. Bà thím và bà chị họ nằm mùng bên cạnh liền qua hỏi han, dỗ dành, tôi càng khóc lớn hơn và mếu máo nói, rõ ràng tôi vừa thấy Mẹ về, làm bà thím và bà chị họ cũng sụt sùi khóc theo.
     Mẹ đi rồi, nhà vắng buồn tênh, lại là khoảng thời gian đối đầu với chế độ mới, bận rộn mưu sinh, thiếu Mẹ là thiếu người lo toan cho chúng tôi từ việc nhỏ đến việc lớn: món ăn ngon Mẹ tẩm bổ cho anh tôi thức đêm học thi, nhắc nhở tấm áo dơ tôi chưa kịp thay cho Mẹ giặt ...Những thời gian đầu vắng Mẹ ấy, chúng tôi thường nhìn ảnh Mẹ trên bàn thờ mà khóc. Đầu óc thơ trẻ của tôi ước ao có phép lạ cho Mẹ sống lại, để tôi vẫn được theo Mẹ ra chợ, đi chơi và về nhà với các món hàng tôi đòi Mẹ mua sắm.
     Mẹ có “về” thăm một người hàng xóm thân thiết của gia đình. Bà ấy kể, Mẹ nói nhớ chúng tôi lắm, nhưng biết chúng tôi yếu bóng vía, sợ ma, nên Mẹ không dám “về” với chúng tôi.
     Rồi tôi cũng lớn dần theo thời gian, hình bóng Mẹ còn đầy ắp trong căn nhà và trong lòng chúng tôi. Trên gác, tủ quần áo của Mẹ vẫn còn một vài món đồ chơi của tôi mà hai mẹ con đã cất dấu trong đó, tôi không dám mở tủ vì biết mình sẽ khóc òa với bao kỷ niệm.
     Vào tuổi thiếu niên, những buổi chiều tối chơi với lũ bạn trong xóm, chúng được mẹ ra tận nơi gọi về ăn cơm hay đi ngủ, còn tôi thì tự đi về, tôi lại cảm thấy nhớ Mẹ vô cùng.
     Hồi tôi học cấp hai, trường có tổ chức buổi picnic mùa hè cho các học sinh. Tôi đến nhà nhỏ bạn thân từ mờ sáng chờ nó cùng đi ra chỗ picnic. Nó vẫn chưa chuẩn bị xong vì mẹ nó còn lúi húi gói cho nó miếng xôi mới nấu, dặn dò nó đủ thứ linh tinh và đưa cả túi quần áo thiệt bự có cả dầu gió, thuốc thang tùm lum. Tôi chạnh lòng, bỏ ra ngoài sân và tự nhủ: “Mình không còn Mẹ, nhưng mình còn Ba và bảy anh chị em khác nữa. Cả nhà mình yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, mình được ăn học đầy đủ, tử tế. Còn nhỏ bạn này, nó không có anh chị em, nên mẹ nó không lo cho nó thì lo cho ai?!” Trấn an mình xong, tôi thấy mình rất can đảm và mạnh mẽ.
     Nói thì nói thế, càng lớn khôn thêm, tôi càng đa sầu đa cảm, dễ xúc động, mong manh. Mỗi khi nghe bài hát Kỷ Niệm của Phạm Duy: “Cho tôi lại ngày nào/Trăng lên bằng ngọn cau/Me tôi ngồi khâu áo /bên câу đèn dầu hao /Ϲha tôi ngồi xem báo/ Phố xá vắng hiu hiu/ Trong đêm mùa khô ráo /tôi nghe tiếng còi tàu…” là lòng tôi lại thổn thức!
     Dẫu sao, sau mỗi lần yếu đuối, khóc thương, tôi lại thấy mình thêm trưởng thành. Có lẽ Mẹ biết vậy, nên đã “về” thăm tôi một lần trong giấc mơ.
     Tôi thấy một buổi tối, cả xóm cúp điện lặng im như tờ, tôi đi lang thang vô định ra đầu ngõ. Đúng lúc ấy, một chiếc xe bus dừng lại để tôi bước lên. Cả chiếc xe vắng tênh mờ ảo, chỉ thấy bóng người tài xế và một hành khách ngồi bất động nơi cuối xe. Tôi tiến về phía đó thì nhận ra Mẹ, tôi mừng rỡ kêu lên “Mẹ Ơi!” rồi ngồi thụp xuống dưới chân Mẹ, vùi đầu vào lòng Mẹ. Mẹ không nói gì, chỉ cúi xuống xoa mái tóc tôi. Tôi lặng im tận hưởng những phút giây ấm áp sung sướng đó. Rồi xe bus dừng lại, tôi phải đứng dậy xuống xe, mà Mẹ vẫn ngồi im. Tôi hỏi: “Mẹ về nhà với con không?” Mẹ vẫn không nói mà chỉ lắc đầu. Nước mắt tôi ràn rụa bước ra khỏi xe như cơn mộng du. Rồi tiếng reo hò của lũ trẻ con trong xóm vang lên: “Có điện! Có điện!” khiến tôi bừng tỉnh giấc chiêm bao. Chiếc áo gối đã ướt đẫm nước mắt và mồ hôi của tôi tự lúc nào.
Đó là giấc mơ tôi gặp Mẹ “về”, cùng với giấc mơ đêm nào trước khi tiễn Mẹ ra nghĩa trang, sẽ mãi mãi theo tôi suốt cuộc đời!
     Con bé Tẹt mê "shopping" của Mẹ ngày xưa, bây giờ vẫn thích "shopping" mua sắm điệu đàng, nhưng không đua đòi như anh Hai đã từng lo xa và nhất là không còn bướng bỉnh như đã từng "hành hạ" Mẹ nữa.
     Mẹ ơi, nếu giờ đây vẫn còn Mẹ, dù con có luôn gần kề Mẹ, chăm sóc chiều chuộng Mẹ thật nhiều lúc tuổi già, thì cũng không thể nào đền đáp đầy đủ tình yêu Mẹ đã dành cho con một thuở bé thơ.
 

– Kim Loan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.