Hôm nay,  

Thương nhớ Ba

17/06/202320:51:00(Xem: 3633)
Tùy bút -- Father's Day

hoa-sống-đời

Dòng đời lặng lẽ trôi không một phút ngừng nghỉ, người sanh diệt đến đi cứ như áng mây trời, thoạt có thoạt không. Cái hình hài nhân dáng này coi vậy chứ vô thường lắm, có đấy mất đấy không hẹn kỳ hạn định. Cuộc trăm năm ngỡ dài nhưng thật sự chẳng mấy chốc, ấy là chưa nói đến những bất ngờ không biết trước được. Người đến thế gian này vì ân oán, vì duyên nợ mà gặp nhau để làm cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bạn bè... những mối ân tình sâu đậm ràng buộc chúng ta với nhau.
    Dòng đời trôi miên viễn, dòng tử sanh bất tận, cuộc mưu sinh vất vả và bận rộn, có đôi khi chúng ta quên những mối ân tình, hoặc giả không quên nhưng vì xa cách hay vì hoàn cảnh nào đấy mà không thể sống trọn tình với những mối ân tình. Cũng may thế gian này thiên hạ đặt ra những ngày lễ để nhắc nhở, để tưởng nhớ những kỷ niệm, những mối ân tình. Âu-Mỹ có những ngày lễ rất đẹp, rất hay mang đậm tính nhân văn: Ngày Lễ Mẹ, Lễ Cha, Lễ Tình Nhân…
 
***
 
Ngày Lễ Cha lại về, con vẫn tận chân trời góc bể, nhớ ba, thương ba, muốn ôm ba một cái cũng không sao làm được! Nhân duyên quá khứ thế nào không biết nhưng quả hiện tại thật xa cách, không thể nào cưỡng lại được nghiệp lực. Ba đã già yếu và nhiều chứng bệnh, thời gian không còn nhiều nhưng giờ biết làm sao đây? Ơn ba má là một trong tứ trọng ân mà nhà Phật vẫn thường nhắc nhở chúng ta. Không phải đến ngày Lễ Cha con mới nhớ ba, ngày nào cũng nhớ cả, hình bóng ba luôn ở trong con, tuy nhiên khi ngày Lễ Cha lại về thì nỗi niềm nhớ lại lung linh lay động mạnh hơn, cứ như gió thổi làm cho lửa âm ỉ trong tro bùng lên,
     Thế gian này ai cũng thương ba má mình, người mình vốn là cư dân nông nghiệp lúa nước, đời sống quây quần bên xóm làng, gia đình, dòng tộc, cho nên tình cảm ông bà, cha mẹ gắn bó chặt chẽ với nhau. Sau này chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây, cuộc sống hiện đại nghiêng về chủ nghĩa cá nhân, tuy vậy tình cảm cha mẹ và con cái không vì thế mà suy giảm. Tiếng Việt mình phong phú lắm, tùy từng vùng và tập quán văn hóa địa phương mà cách gọi ba cũng rất đa dạng, nào là: cha, ba, bố, thầy, cậu, tía, ông thân…
    Ngày xưa khi nền Hán học và tư tưởng Nho giáo còn thống trị thì cha là một trong tam cương: Quân- sư-phụ. Chữ phụ trong Hán tự vẽ người đàn ông hai tay cầm hai roi, ngụ ý việc dạy dỗ con cái. Điều này cũng tương ứng với tục ngữ Việt ta: “Mẹ sanh cha dưỡng”. Ca dao Việt có câu: “Công cha như núi Thái sơn”, núi Thái lớn lắm, cao lắm nhưng vẫn còn đo và ước lượng được, công cha thì làm sao mà đong đếm đo lường đây?
    Ngày Lễ Cha, con nhớ ba, thương ba. Con vẫn thường hồi tưởng lại lúc tuổi thơ êm đềm trong sự yêu thương bảo bọc của ba má. Ba dạy con học vỡ lòng, tập đọc, tập viết trước khi đến trường. Ba cầm tay con tập từng nét chữ, tiếc là con quá hậu đậu không theo kịp ba. Chữ viết của ba đẹp tuyệt vời, nét chữ mà người đời thường khen tụng là “rồng bay phụng múa”, nét chữ thường được dùng để viết văn bằng. Ba đẹp trai và hào hoa, con chẳng bằng ba, người ta nói “Con hơn cha nhà có phúc”, vậy là nhà mình không có phúc rồi! Mặt nào con cũng hổng bằng ba hết trơn! Có một điều này thì con giống hệt ba, giống y chang, giống như đúc luôn. Con và ba rất hậu đậu và lận đận. Con như thể là bản sao của ba, hổng biết nghiệp lực gì mà giống nhau như vậy! Ba hào hoa, phong nhã, đọc sách ngấu nghiến dù là sách ngoài đời hay kinh sách nhà Phật, ba tài hoa nhưng chưa đến độ chín mùi và cũng lỡ vận. Nhiều lúc con cảm nhận ba ở trong con, thương ba nhiều lắm.
    Nhà Phật bảo vì nhân duyên, vì cùng tâm thức tương ứng mà sanh vào một nhà làm cha mẹ, con cái với nhau. Con với ba có lẽ là một minh chứng đây! Cái sở thích, điều quy hướng và cái quả hiện tại của con và ba giống nhau lạ lùng. Ngày lễ cha, nhớ ba, thương ba nhưng con chẳng làm được gì để ba má nở mày nở mặt, chẳng làm được gì để gọi là chút báo hiếu. Con hậu đâu, lận đận, ngoài mớ chữ nghĩa ẩm ương ấm ớ này ra con chẳng được tích sự gì!
    Ngày Lễ Cha khác với ngày Lễ Mẹ, thiếu hẳn sự sôi động rộn ràng, hoa và quà cũng ít hơn. Có lẽ thiên hạ vẫn quan niệm cha là đàn ông, trượng phu nên ít sắc thái màu mè. Mặt khác cũng cần phải nhìn nhận là người mẹ gắn bó với con cái sâu đậm hơn cha, ngoài việc mang nặng đẻ đau ra người mẹ còn chăm sóc, nuôi nấng từ lúc sơ sinh đến lúc trưởng thành, vì thế con người ta gần gũi và gắn bó với mẹ hơn là với cha.
    Xứ mình không có ngày Lễ Mẹ hay Lễ Cha. Xứ mình trọng ngày tử (giỗ) hơn là ngày sinh, tuy nhiên những năm gần đây, ảnh hưởng văn hóa phương tây mà giới trẻ thích thú và hưởng ứng ngày Lễ Mẹ, Lễ Cha, Lễ Tình Nhân… Cái hay, cái đẹp, điều nhân văn càng lan tỏa càng tốt cho xã hội.
    Ngày Lễ Cha, con lại nhớ về kỷ niệm ngày xưa lúc con còn nhỏ, ba thường chở con về quê nội chơi. mùa hè cũng là mùa mía, nhà nội có rẫy mía lớn nhất vùng, mía đem ép để nấu đường. Về rầy mía tha hồ ăn mía, uống nước mía, ăn kẹo đậu phộng, kẹo dừa… Ba đi loanh quanh những chỗ mía vừa cắt để nhặt chim non, ba đem đặt chúng ở những cây cao hay bụi rậm. Ba chở con đi khắp đồng quê, những cánh đồng xanh bát ngát và cò trắng chao lượn đẹp như cổ tích, từ rẫy mái nhà nội đi qua gò Đu để đến chùa Bàu Lương, những con đường mòn nhỏ xíu chạy quanh quất qua gò Đu sao mà đẹp lạ thường. Ông sư già chùa Bàu Lương lông mày bạc trắng rớt che cả mắt, nhìn ông cười hiền từ ngỡ như ông tiên trong truyện cổ tích ngày xửa ngày xưa. Ba chở con đi chơi khắp nơi, đi lòng vòng rồi viếng mộ tổ, ngôi mộ to như ngọn đồi, xây bằng đá ong đỏ quạch dù nắng mưa tháng năm thế nào cũng không làm phai màu, mộ tổ đã sụp đổ một phần theo lẽ vô thường của cuộc bể dâu. Ba kể chuyện ngày xưa dòng họ vốn từ ngoài bắc đã theo quân Nguyễn Huệ vào nam lập nghiệp, tính ra cũng gần ba trăm năm rồi. Hồi ấy vùng này là hoang vu, tổ đến đây và quyết định dựng lập tại đây! Từ đó dòng họ phát triển ra khắp vùng, cách đấy không xa mấy là tiểu trấn Phù Dung. Đất xứ này không phải địa linh nhưng có thể bảo là đất lành, người trong thiên hạ vẫn thượng tụ về. Thời cổ đại thì người Lâm Ấp, kế đến là người Chăm, sau đó Việt và người Tàu cùng hội tụ ở đây để sinh sống. Trấn nhỏ, dân ít ấy vậy mà số dòng họ người Tàu còn nhiều hơn số người Việt, nào là: Họ Hàn, Thái, Hoàng, Khưu, Diệp, Tạ, Hứa…
    Con dân một nước thì ắt phải chịu hậu quả hay hưởng thành quả của xã hội đó! Xưa tổ từ vượt sông Gianh chia cắt để vào nam lập nghiệp. Đến đời nội thì nội lại vượt sông Bến Hải để đi tập kết ra bắc. Nước mình cứ lẩn quẩn trong vòng chiến chinh chia cắt. Sông Gianh hay sông Bến Hải tuy khác danh tự nhưng sự chia ly, ngăn cách, tang thương thì chẳng khác gì nhau. Thực tế hiện tại không còn sự chia cắt của sông Gianh hay sông Bến Hải nhưng lòng người vẫn có sự chia cách, phân biệt rất rõ ràng.
    Cái vòng sanh tử liên lỉ, sự đời ly tán hợp tan. Ngày xưa khi tổ vào nam chắc cũng biền biệt cách xa những mối ân tình thâm trọng, đến đời nội thì ba và nội cũng chia cách hai mươi mốt năm ròng, đến lượt con thì con và ba cũng xa xôi vạn dặm, muốn gặp nhau thật chẳng dễ tí nào. Nhân quả thế nào? Nghiệp lực ra sao? Thật không sao biết được! Ngày Lễ Cha, con nhớ ba, thương ba nhiều lắm.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 0623)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.