Hôm nay,  

Từ Paris Đến Quê Hương: Kỷ Niệm Với Anh Cao Huy Thuần (1937-2024)

13/07/202410:42:00(Xem: 3817)
blank
 

TỪ PARIS ĐẾN QUÊ HƯƠNG: KỶ NIỆM VỚI ANH CAO HUY THUẦN (1937-2024)
 

NHẤT UYÊN
 

Anh Cao Huy Thuần vừa qua đời lúc 23giờ 26 ngày 7-7-2024 tại Paris. Được tin anh qua đời tôi không khỏi ngậm ngùi, nhớ lại những kỷ niệm cùng anh suốt gần 60 năm, từ Việt Nam đến Paris.

Anh sinh tại Huế, học Đại Học Luật Khoa Sài Gòn (1955-1960) và dạy đại học Huế (1962-1964). Năm 1964 anh sang Pháp du học. Năm 1969 anh bảo vệ Luận án Tiến sĩ Quốc Gia tại Đại Học Paris, và giảng dạy tại Viện Đại Học Picardie cho đến khi về hưu.

Tôi và anh cùng xuất thân từ Phong Trào Phật Giáo miền Trung, anh là đệ tử Thầy Trí Quang và anh là Chủ bút tờ báo Lập Trường tại Huế, Chủ nhiệm là bác sĩ Lê Khắc Quyến, cha nhạc sĩ dương cầm Lê Khắc Thanh Hoài. Tôi là một huynh trưởng Gia Đình Phật Tử chăm lo sinh hoạt cho các thanh thiếu niên tại Phan Thiết. Những ngày tháng sôi động Phật Giáo Miền Trung, tôi và anh Nguyễn Bắc Sơn (nhà thơ) cùng cổ động cho tờ báo của anh. Những bài anh viết chúng tôi thường đọc và bàn luận sôi nổi.
 

Tôi và anh cùng sinh ra trong một thế hệ mà phân nửa bạn bè hy sinh trên chiến trường, những hô hào cổ võ chiến tranh, chúng tôi chỉ thấy « chập chờn bay trên bại thắng, ngọn cờ khăn sô màu trắng » (Tâm Ca Phạm Duy. Để lại cho em). Và sau ngọn cờ khăn sô đó là thân xác, máu xương của cả một thế hệ, bao nhiêu nhân tài đất nước không được sống qua tuổi ba mươi, để xây dựng một đất nước nghèo nàn nhược tiểu vừa thoát khỏi thuộc địa, để trở thành tốt đẹp hơn, mà trở thành con tốt thí trên bàn cờ chính trị thế giới.
 

Anh được học bổng du học, hay chỉ là việc tống khứ ra khỏi nước một phần tử xách động cho phong trào hòa bình. Nhưng dù thế nào, trong hoàn cảnh nào anh cũng gắng sức học tập để đạt những thành tựu gian nan trong Đại Học Pháp, hoàn thành luận án Tiến sĩ, làm trợ giáo, rồi giảng viên, thành Giáo sư Đại học là con đường gian nan, không dễ dàng gì trước bức tường bằng kính trong suốt những kỳ thị cực đoan.
 

Anh vẫn sống trọn vẹn tâm hồn người Phật tử giữ năm giới cấm nhà Phật : Không giết người, không trộm cắp, không nói dối, không tà hạnh, không rượu chè say sưa. Những giới luật căn bản tưởng chừng như « ngây thơ » trước sự hổn loạn của xã hội, đạo đức bị sụp đổ, nhìn kỷ những luật pháp mọi thời, mọi xã hội cũng không ra ngoài những điều căn bản đó.
 

Anh không thuyết giảng những lời cao siêu, khúc mắc, nhưng nhìn anh, lời nói anh, tâm tình anh, bài viết anh đã bộc lộ những lời chân thật, chính những chân tình đó đã lôi cuốn thu hút người đọc, những người gặp anh, tiếp xúc với anh.
 

Rồi đi du học sang Pháp năm 1970, tôi lại gặp anh và sinh hoạt cùng anh trong Hội Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại chi Bộ Pháp, Thầy Thích Thiện Châu, và báo Gió Nội tại Paris. Tôi và anh gặp nhau trong những buổi họp hằng tuần làm báo cùng anh Bùi Mộng Hùng, Trần Hải Hạc, Nguyễn Tùng, Lê Kim Chi, chị Thái Thị Kim Lan, anh Lê Văn Tâm, anh Trần Tiễn Tiến.. và những trại hè Phật Tử tại Pháp, trại mùa đông tại Đức, trong các buổi lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, Lễ Tết.. Bao lần tôi bàn luận cùng anh, nói chuyện tâm tình. Chuyện tâm tình anh thổ lộ trong hàng trăm bài viết, in thành sách, Nhưng chuyện tôi và anh tôi vẫn giữ mãi trong tim, và hôm nay anh đã ra đi.
 

Những ngày Paris lúc anh còn sống độc thân, có lúc anh bị tách con ngươi mắt, suýt bị mù phải nằm Bệnh viện Cư xá Sinh viên hàng tháng trời, hai mắt anh băng kín, tôi ở trong cư xá gần bên, hàng ngày tôi đến chăm sóc, giúp ăn uống hằng ngày như người anh trong gia đình. Tôi thông cảm cùng anh mối tình không trọn vẹn, hằng tuần anh đi về giữa Paris và Munich, hai người quý mến nhau, cùng tình yêu quê hương xứ Huế, nhưng tình yêu lại không thành. Rồi anh về Huế cưới chị Phương Liên, những ngày tháng dài đằng đẳng anh than thở « phải làm giấy chứng nhận cư trú cho vợ, một thủ tục hành chánh thật là buồn cười », công việc khó khăn nhiêu khê thời ấy phải nhờ đến nhà thơ Huy Cận can thiệp mới được nhanh chóng. Và chị đã sang anh mua nhà tại gần vườn Hồng, L ́Haie les Roses làm tiệc mời nhà thơ Huy Cận và tôi, nhân một chuyến Huy Cận sang Paris.
 

Trong phong trào đấu tranh cho hòa bình Việt Nam tại Paris, anh Cao Huy Thuần, anh Đặng Tiến và tôi là những người từng viết văn, làm báo, in sách, in thơ tại Việt Nam, nên tên thường xuất hiện chung trên báo chí Pháp Việt với tư cách nhân sĩ.
 

Tôi kính phục anh tư cách điềm dạm, chín chắn, nói và viết tế nhị phong phú, văn chương anh nhẹ nhàng thanh thoát. Khi có những gì thắc mắc tôi hỏi anh, anh trả lời thông suốt gọn gàng.
 
Tại Paris, cậu tôi là TS Nguyễn Xuân Thọ nhân từng làm việc tại Bộ Ngoại Giao Pháp và soạn luận án về Bước đầu thâm nhập Pháp tại Việt Nam đã cung cấp cho anh nhiều tài liệu quý để hoàn thành Luận án Tiến sĩ Quốc Gia : Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa Pháp tại Việt Nam (1857-1914).
Khi sách TS Nguyễn Xuân Thọ xuất bản tại Mỹ và nhờ tôi phổ biến tại Pháp. Tôi mang đến anh Cao Huy Thuần, anh là người đầu tiên ủng hộ sách.

Sống tại Pháp, nhưng thật sự chỉ dùng ngôn ngữ Pháp cho chuyện cơm áo, soạn luận án, soạn bài giảng dạy cho sinh viên để sinh sống hằng ngày. Nhưng khi trở về với lòng mình, thì chỉ là thơ, viết văn, viết nghiên cứu viết bằng tiếng Việt, đó là điều nghịch lý của những người yêu quê hương sống nơi xứ người. Dù thời gian ở xứ người gấp đôi, gấp ba lần thời gian sống trên quê hương. Người Việt nơi xứ người không phải là một người cô đơn, nơi xứ lạ mà chung quanh là một cộng đồng bạn bè Việt Nam, vợ con Việt, nấu ăn món Việt đủ mùi mắm muối quê hương. Họ không phải chỉ cần mắm muối mà còn cần những bài thơ, bài văn, bài nghiên cứu viết bằng tiếng Việt. Ở Pháp không thiếu tư liệu như nhiều người lầm tưởng, khác với thái độ trịch thượng : « ở xa Việt Nam mấy ông bà người Pháp gốc Việt ở lâu năm xứ người biết gì mà viết ! », mà cả một kho tàng văn hoá Việt Nam được lưu trử từ Trường Viễn Đông Bác Cổ, đến các thư viện quốc gia Paris cả một kho tàng bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ, chữ Pháp. Người Việt nước ngoài có cơ hội tiếp xúc rộng rãi với các nền văn minh thế giới, biết người, biết ta có thể giúp cho người trong nước mở rộng hơn tầm kiến thức văn minh nhân loại.
 

Việt Nam là nơi quê cha, mẹ quê đất tổ dù đi xa nhưng làm sao có thể quên được, trong thời chiến tranh hàng ngày báo chí, truyền hình cảnh bom đạn trên đất nước. Người đi xa chỉ còn thấy : « Càng đi xa càng gần gủi quê nhà, Càng đau xót khi bom gầm đạn nổ, Muối xát tâm hồn, cay bỏng thịt da. Công cha như núi Trường Sơn,Thơ Nhất Uyên ». Đó là điều thôi thúc người Việt sống nơi xứ người dấn thân cho hoà bình, dù phải trải qua những gian nan bị cúp thông thành, cúp học bổng, cúp chuyển ngân.. và phải trở thành Tây giấy.
 

Trong « Sen thơm và nắng hạ » anh viết : « Cả đời tôi cứ tự hỏi, ấy là viết văn để viết văn, viết văn như một nhu cầu, viết văn cho nữ thần nghệ thuật hay đó là bức thư tình máu thịt cho một người có thịt có xương. Câu hỏi càng hợp với thời đại, nhưng tôi cứ bỏ ngõ, việc gì mà phải trắng đen phân minh để mất đi cái hương vị của một thứ tình đầu. ? »
 

Trong Sống và biển về Phật Giáo anh viết : «Ngồi thiền không phải là thu hẹp cái tâm lại vòo mục đích vị kỷ là để thành công, mà để rộng cái tâm ra cho cả cuộc đời.»
 

Anh Cao Huy Thuần, anh Đặng Tiến và tôi là những người viết không mỏi mệt từ gần 60 năm qua, viết chẳng có một món tiền nhuận bút nào, chẳng lợi lộc nào, chẳng phục vụ cho một đảng phái mục đích chính trị nào, mỗi người một lãnh vực. Anh Cao Huy Thuần thiên về Phật Giáo, tùy bút tâm tình. Anh Đặng Tiến thiên về phê bình văn học phê bình các nhà thơ từ xưa đến nay, từ nam chí bắc không bị rào cản bởi vĩ tuyến nào, chính trị nào. Còn tôi nối tiếp các công trình nghiên cứu còn dang dỡ Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, từ chuyện vì bản Lưu Hương Ký bị cất dấu suốt 40 năm, tôi viết về Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Đoàn thị Điểm và từ đó sang các nhà thơ Cổ điển Việt Nam viết bằng chữ Hán , dịch thơ đường luật toàn bộ Tinh Sà Kỷ Hành của Phan Huy Ích, toàn bộ 100 bài Cúc thu bách vịnh thơ đối thoại giữa Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm, toàn bộ Hoàng Hoa Đồ Phả của Ngô Thì Nhậm... và sang dịch thuật bằng thơ lục bát, song thất lục bát các tác phẩm văn chương vĩ đại của nhân loại : Odyssée, Iliade của thi hào Homère, Thần Khúc của Dante, Tiểu Thuyết Hoa Hồng của Guillame de Lorris và Jean de Meun, Trường ca Roland. Les Lusiades của Camoẽs. Trường ca Roland. Énéide của Virgile.
 

Từ khi về hưu anh Cao Huy Thuần thường về nước, được mời thỉnh giảng , nói chuyện tại các đại học, các viện nghiên cứu. Các bài viết anh được tập họp xuất bản trong nước.
  
Thượng đế, Thiên nhiên, Người, Tôi và Ta (triết lý luận và tư tưởng Phật Giáo) Nxb TPHCM. 2000.
tái bản Nxb Hồng Đức / Khai Tâm. 2017
Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc địa Pháp tại Việt Nam, 1857-1914. Nxb Tôn Giáo 2002. nxb Hồng Đức/ Phương Nam 2014.
Từ Đông sang Tây. Tập họp các bài viết tăng Giáo sư Lê Thành Khôi. Chủ biên cùng Nguyễn Tùng, Trần Hải Hạc, Vĩnh Sính. Nxb Đà Nẵng 2005.
Tôn Giáo và xã hội hiện đại. Nxb Thuận Hóa. Phương Nam 2006 tái bản Nxb Hồng Đức Khai Tâm 2017.
Nắng và Hoa. Nxb Văn Hoá SàiGòn 2006.
Thế giới quanh ta. Nxb Đà Nẵng 2007.
Thấy Phật, Nxb Tri Thức / Phương Nam 2009, tái bản 2013.
Khi tựa gối khi cúi đầu. Nxb Văn Học, Nhã Nam 2011.
Chuyện trò. Nxb Trẻ 2014.
Nhật ký sen trắng Nxb Trẻ 2014.
Sợi tơ nhiện Nxb Trẻ 2015.
Đến với Phật cùng tôi Nxb Hồng Đức 2016.
Người khuân đá . Nxb Trẻ 2018
Sen thơm nắng hạ quê mình. Nxb Tri Thức/ Khai Tâm 2020
Im lặng như lời chia tay. Nxb Khai Tâm Đà Nẵng 2022.
  
Và quyển sách cuối cùng của anh: Im lặng như lời chia tay. Anh viết : « Hãy sống thử bao giờ cũng là khoảng khắc cuối cùng và hãy yêu cuộc đời như một ân huệ tối thượng mà ta phải đền đáp bằng tất cả tốt đẹp thánh thiện trong lòng. ». Như một lời vĩnh biệt ngừng viết và hôm nay anh đã thực sự ra đi ở tuổi 87. Anh đã sống trọn vẹn cuộc đời, để lại cho đời những gì anh mong ước và hôm nay anh đã thanh thản ra đi, và ngày 15, lễ hỏa táng thân xác anh cát bụi trở về cát bụi.
Ngồi viết về anh nhớ về anh, nhớ mãi những kỷ niệm vui buồn cùng anh.

Paris 13-7-2024

NHẤT UYÊN PHẠM TRỌNG CHÁNH

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
Từ nhỏ, mẹ tôi đã đọc cho tôi nghe truyện Trương Chi và Mỵ Nương nên tôi biết Trương Chi thổi sáo rất hay. Lớn lên, khi học trung học đệ nhất cấp, tôi nghe được ca khúc “Trương Chi” của nhạc sĩ Văn Cao, tronng bài đó, có câu “Anh Trương Chi, tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung…” tôi mới biết Trương Chi không thổi sáo mà hát trên sông. Vậy thì tiếng sáo hoặc tiếng ca đã làm Mỵ Nương say đắm? Văn Cao nổi bật với hai ca khúc “Thiên Thai” và “Trương Chi.” Cả hai đều được viết trong dạng truyện với kịch tính. “Trương Chi” là ca khúc có hình thức vừa, nghĩa là có chiều dài giữa ca khúc bình thường và trường ca. Tại sao có kịch tính?
Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc. “Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.
Phế tích của ảo ảnh, nhan đề một tập thơ của nhà thơ Trịnh Y Thư, do Nhà xuất bản Văn Học Press ấn hành năm 2017 tại Hoa Kỳ. Một nhan đề chất chứa không biết mấy lớp không gian và thời gian, không biết mấy thức của cảm xúc; nó như một sợi chỉ mà khi kéo ra chỉ thấy vô tận. Điều gì làm hoang mang và quyến rũ tôi đến vậy? Chữ “Phế tích” tác giả dùng cho “Ảo ảnh” khiến cảm xúc cuốn theo chiều hút của vực thẳm, trong đó nỗi hoài niệm treo lơ lửng trên dốc thời gian, lịch sử và thân phận, như một thách thức...
Chiều thứ Bảy 23 tháng 8 sắp tới đây, chúng ta sẽ được xem màn trình diễn Hợp Xướng "Chinh Phụ Ngâm" lần đầu tiên ở Hoa Kỳ. Nhà hát Rose Center Theater chuyên dùng cho các buổi hoà nhạc hay nhạc kịch ở Quận Cam sẽ là nơi vở hợp xướng trang trọng này được diễn ra. Cùng với màn hợp xướng, Đoàn Văn Nghệ Lạc Hồng sẽ giới thiệu Chương Trình Ca Vũ Nhạc Kỷ Niệm 50 năm viễn xứ "Cánh cò xa xứ" tại đây. Rất phấn khởi với tin tức này, tôi lại có cơ duyên quen biết và tiếp xúc với Nhạc Sĩ Vũ Đình Ân, tôi tìm gặp ông để tìm hiểu thêm về vở hợp xướng "Chinh Phụ Ngâm".
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.