Hôm nay,  

Rực Lửa, Rực Nữ Tính

10/02/200600:00:00(Xem: 9349)
- Dương Thu Hương trả lời tờ báo Pháp Giải Phóng, nhân cuốn Chốn Vắng của bà được xuất bản bằng tiếng Pháp

Các tiểu thuyết của Dương Thu Hương không được xuất bản ở Việt Nam nhưng xuất bản ở nước ngoài. Cuộc gặp gỡ với một nữ ly khai, giữa dấn thân và văn chương.

Claire DEVARRIEUX –

Báo Libération Quotidien, số đề ngày Thứ Năm 09-02-2006.

Dương Thu Hương là tiểu thuyết gia Việt Nam được biết nhiều nhất thế giới. Từ khi bà bị bảy tháng tù năm 1991, tác phẩm của bà không còn được xuất bản ở Việt Nam; bà được thả ra nhờ sự can thiệp của các nhân vật ở Tây Phương. Bà bị quản chế nhưng không theo đúng nghĩa quản chế; Phan Huy Đường, người dịch các tác phẩm của bà cho hay: “Bà có thể đi đâu bà muốn nhưng lúc nào cũng có hai công an túc trực trước nhà bà, ngày đêm, báo cáo các khách thăm viếng, các buổi nói chuyện. Bà không thể có cuộc sống riêng tư.”

Sinh năm 1947, bà bị khai trừ khỏi Đảng và Hội Nhà Văn năm 1990. Người ta khiển trách thái độ chống đối và cuộc đấu tranh cho dân chủ của bà. Dịch giả của bà nói: “Trong xã hội trọng Khổng Giáo, chỗ đứng của người đàn bà không có. Trong chiến tranh, người ta cần họ, thật là đau lòng, nhưng sau chiến tranh, người ta thích họ quay về với cái bếp.” Trong chiến tranh, năm 20 tuổi bà đã ra chiến trường và điều khiển một đoàn văn công.

Bà đang ở Paris nhân dịp ra mắt quyển sách - Chốn Vắng - Terre des oublis. Bà tươi cười, vui vẻ. Và bỗng chốc, bà bừng lửa.

- Bà có ý định viết Chốn Vắng lúc nào"

- Câu chuyện này có từ lâu lắm, từ tỉnh Quảng Bình, (để cho chúng tôi dễ hiểu bà ghi chú trên tờ giấy: “Quảng Bình là một tỉnh ở miền Trung, trong chiến tranh đó là tỉnh ở địa đầu chiến tuyến,”) giống như quyển Tiểu Thuyết Vô Đề và Lưu Ly. Tôi viết Tiểu Thuyết Vô Đề là để trả nợ cho các bạn đã khuất, từng người bạn trong quyển sách này hằng ở trong tâm trí tôi, các câu chuyện cứ chất đống trong đầu tôi và tôi phải xả nó ra, từng chuyện một.

Trong chiến tranh, tôi làm việc trong ban văn hóa tỉnh Quảng Bình. Sau khi Miền Nam giải phóng, tôi vẫn còn ở đó. Vùng đất này gây ấn tượng dữ dội trong đầu tôi vì chính nơi đó, tôi đã sống những năm tuổi trẻ, gặp những người khác nhau, lính tráng, dân sự, nạn nhân, thương binh và cả những kẻ đào ngũ, có rất nhiều trại cải tạo ở đó.

- Lúc nào bà cũng nói bà không thích trở thành nhà văn"

- Trở thành nhà văn là chuyện tình cờ, là để giải thoát tôi khỏi đau khổ. Tôi không quá mê nghề này nhưng tôi thấy đây là một phương cách để sống còn. Tuổi vị thành niên, tôi mơ trở thành nhà vô địch chứ không phải nhà văn.

- Vô địch gì"

- Vô định bóng bàn, thể dục dụng cụ!

- Khi nào bà mới quyết định viết"

- Năm 1980. Tôi viết truyện ngắn. Trước đó, trong chiến tranh, năm 1970, để bắt chước bạn bè ở ban văn hóa, tôi viết những bài viết ngắn, vài bài thơ, tất cả chỉ có tính cách nghiệp dư. Thơ chỉ để giải trí, tôi thích lắm. Tôi nhớ lại lúc đó tôi chẳng có một ý tưởng nào trong đầu là tôi sẽ trở thành nhà văn.

Từ năm 1980, tôi tập trung tư tưởng. Tôi bắt đầu cảm thấy có thể theo đuổi nghề này. Một cảm giác mông lung bởi vì tôi phải kiếm sống bằng nghề viết kịch phim. Vào thời buổi đó, kịch phim chẳng có một nghĩa gì, phim ảnh không có đất đứng ở xứ sở nghèo nàn Việt Nam, phim ảnh là dùng để tuyên truyền.

Tôi viết năm kịch phim và đều được thực hiện. Giống như tất cả các nhà viết kịch phim, tôi muốn tham dự vào phần dàn dựng, nhưng đã không thành công tôi lại còn bị phá sản. Tôi viết một tài liệu văn nghệ - le Sanctuaire des espoirs, [dịch nghĩa đen, Giáo đường của những hy vọng, không biết nguyên tác, tên tiếng Việt là gì. ND]. Tôi để hết tiền bạc vào việc thực hiện phim này. Giống như các bài viết về chính trị của tôi, tôi đả kích chế độ vì thế họ hủy hết tất cả âm bản của tôi ở phim trường. Đó là năm 1990, một năm trước khi tôi bị bắt. Làm phim thì khó hơn viết sách, viết không cần tiền, không cần dụng cụ, nhất là không cần tiếp xúc với người khác. Chốn Vắng có thể dài nhưng cũng như các quyển khác, tôi viết đều đều, một năm và vài tháng. Sau đó tôi nghỉ ngơi, lo cho gia đình. Một hoặc hai năm, tùy, rồi tôi bắt qua quyển khác.

- Có lúc nào bà nói đến bà trong tiểu thuyết"

- Chưa. Trong mỗi câu chuyện, tôi viết các tư tưởng, các giấc mơ, các ảo tưởng và các thất tưởng của tôi nhưng chưa bao giờ tôi viết tự truyện. Năm 1994 (1), ở Paris, tôi từng viết hồi ký, lúc đó tất cả các bạn tôi sợ tôi bị bắt lại và sẽ bị giết, họ xin tôi viết lại chuyện của tôi. Tôi viết một bài có tên là Những cây nến trắng, les Chandelles blanches, tôi viết chưa xong và phải trở về Việt Nam. Chưa đến lúc viết xong quyển sách này vì chính tôi đây là quyển sách còn dở dang.

Với tôi, mọi sự đều trong sáng, mọi ranh giới đều rõ ràng. Tiểu thuyết là tiểu thuyết, tự truyện là tự truyện, tôi không muốn lẫn lộn hai loại này. Đó là tính của tôi. Tôi rất cứng ngắt, quá nghiêm túc. Quá đơn giản để tạo một cái gì cầu kỳ vi tế. Tôi thích các ranh giới. Có những chuyện nhiều người cảm thấy dễ chịu khi nó còn mơ hồ giữa tình yêu và tình bạn, giữa tình cảm của anh trai em gái, thêm thắt vào đó một chút cảm giác vô luân, thế là lôi cuốn người khác, thế là làm đảo lộn, thế là bừng lên giấc mơ thầm kín, tạo nên nét đẹp lạ thường cho văn chương. Tôi không thích như thế trong đời sống cũng như trong văn chương. Tôi được giáo dục kỹ càng trong chế độ phong kiến.

- Gia đình của bà như thế nào"

- Một gia đình theo truyền thống. Chấp nhận và giữ kỹ càng các giá trị luân lý cổ truyền. Bà nội tôi là người có đất đai. Bên ngoại làm nghề giáo và bác sĩ. Cha tôi là kỹ sư vô tuyến điện. Ông học trường Cao Đẳng Kỹ Thuật của Pháp ở Hà Nội. Sau đó, ông là kỹ sư trong ngành hàng hải dân sự Pháp cho đến khi có cuộc chiến của hai nước.

- Bà nghĩ gì về cuộc tranh luận hiện nay ở nước Pháp về quá khứ, về thuộc địa"

- Vô ích! Cái gì đã qua là đã qua. Lịch sử lúc nào cũng hình thành như vậy. Người Trung Quốc xâm lăng người Việt, người Pháp đô hộ người Việt, người Việt lấn đất người Cao Miên, người Chàm. Chúng ta, người đương đại, không trách nhiệm về những gì xảy ra trước chúng ta. Tại sao lại đào mồ lên" Mất thì giờ. Có thể tôi quá thẳng. Nhưng tôi không phải là một chính trị gia. Cuộc chiến đấu cho nền dân chủ của tôi là cuộc chiến bất vụ lợi. Tôi tự do, tôi thấy tôi không cần phải làm vui lòng ai.

- Bà dùng tiểu thuyết của bà cho các mục đích chính trị"

- Không. Không bao giờ. Tôi viết tiểu thuyết là để cho tôi, tôi viết các bài chính trị là để cho người khác. Ở đó, tôi dấn thân. Nhưng không đảng phái, không đoàn thể. Tôi lúc nào cũng là một con sói đơn độc. Tôi hài lòng với chính tôi.

- Tại sao bà đấu tranh" Tại sao bà không ngồi nhà để viết"

- Tôi không thể tiếp tục ngồi viết nếu có người cần đến sự giúp đỡ của tôi. Thời gian đã bị đã bị cắt nát, tan hoang, và tôi cũng vậy. Đó là số phận của tôi.

- Tại sao Chốn Vắng là một tiểu thuyết sống sượng, nhắm thẳng vào dục tính như vậy"

- Điều đó làm cho bà ngạc nhiên vì tôi là phụ nữ Á Châu sao" Đó là tính của tôi. Tôi trọng sự thật, con mèo là con mèo, sự thật là sự thật. Tôi không có khả năng khéo léo để nói vòng vòng. Tôi hoàn toàn tự do trong lãnh vực này, tôi làm đúng theo con người của tôi.

- Có phải vì vậy mà tác phẩm của bà bị kiểm duyệt"

- Không, Tiểu Thuyết Vô Đề, Lưu Ly và Chốn Vắng không được xuất bản ở đây, chúng chỉ được xuất bản ở nước ngoài. Tôi viết tiếng Việt, các bạn người Đức, người Pháp của tôi đem bản thảo qua biên giới, sau đó họ gởi qua Pháp. Từ khi tôi được thả ra, họ cấm tôi không được xuất bản. Các ký giả không được quyền nhắc đến tên tôi, nếu họ nhắc, công an sẽ can thiệp.

Cũng rất khó khăn nhưng tôi chọn như thế, tôi ở lại để đấu tranh. Tôi phải làm quen với mọi sự việc kể cả cái chết. Chuyện bình thường.

- Bà không sợ nguy hiểm cho tính mạng"

- Nếu tôi muốn khạc vào quyền lực, tôi không có quyền sợ.

- Làm sao bà có được cái can đảm này"

- Có thể là vì tôi đã quá hèn trong tuổi thanh xuân. Tôi tin trong mỗi con người, ai cũng có một số liều lượng can đảm, hèn nhát, thông minh, ngu đần khác nhau. Tôi không tin có người nào hoàn toàn hèn nhát hay hoàn toàn anh hùng, nếu họ nói như vậy là họ nói dối hay quá kiêu ngạo, đó là những người lừa bịp.

Khi tôi còn trẻ, tôi lấy một người yêu tôi nhưng tôi không yêu họ. Ông kê khẩu súng vào cổ tôi và bắt tôi lấy, nếu không ông sẽ bắn một phát vào cổ họng tôi rồi tự tử. Tôi 20 tuổi, tôi sợ, đó là một tên điên vì yêu, lúc đó cha tôi ở xa. Bà hiểu rõ, trong gia đình, người cha lúc nào cũng là người nâng đỡ con gái. Các em tôi còn nhỏ, tôi là chị cả, tôi sợ chết và tôi không làm sao thoát ra khỏi hoàn cảnh này. Tôi sống khá lâu như cọng rau, như tên nô lệ. Sau khi sinh hai đứa con, tôi đòi ly dị, cha tôi can thiệp, ông bắt tôi phải ở lại với người đàn ông này vì theo chế độ phong kiến, ly dị là làm nhục gia đình. Tôi phải ở lại ngục thất này cho đến năm 1980. Cha tôi là thần tượng của tôi, cha tôi rất tận tâm, rất dễ thương vì thế tôi vâng lời cha tôi. Đó, tôi kiệt sức vì hèn nhát như thế đó!

- Bà viết về chiến tranh, về các trận đánh. Bà có sống trong đó không"

- Trong chiến tranh, tôi là cán bộ văn công, tôi không phải là lính. Tôi không biết bắn nhưng tôi phải đem đoàn văn công của tôi đi theo trận đánh, dù muốn dù không, tôi phải làm quen với bom dội, với xác chết, mùi thịt rửa, mùi hôi thối, mọi sự. Nếu tôi là lính thì tôi đã biết cách chiến đấu với chồng tôi, tôi không biết chiến đấu nên tôi thụ động ở lại để chịu những cú đấm. Đứng trước quyền lực, tôi là người chiến đấu đến cùng dù cho phải chết nhưng để chiến đấu cho chính tôi thì không bao giờ, tôi sợ, tôi nhục; mấy người bán hàng rong, bán cá nếu họ làm nhục tôi, tôi im lặng, tôi tránh xa. Đứng trước chồng tôi, tôi không dám kêu, tôi như người không còn vũ khí.

(1) Năm 1994, bà đã từng được Bộ Trưởng Văn Hóa Pháp Jacques Toubon gắn huy chương Hiệp Sĩ Văn Học Nghệ Thuật

Tin Văn -- Tanvien.net

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đọc lịch sử, ta thấy bất cứ dòng họ vua chúa nước nào cũng thường trải qua một thời hưng thịnh ban đầu rồi dần dần suy tàn, nhường chỗ cho một triều đại mới. Những kẻ cướp ngôi hầu hết đều thuộc hạng bề tôi đã gây được thế lực đủ mạnh để lấn lướt nhà vua...
Dọc đường tôi đi bộ bên bờ kênh Delaware và Raritan, khoảng cuối tháng Tư có loại hoa màu tím nhạt nở từng chùm treo lúc lỉu trên những cành cây; thấp thì sà xuống mặt nước, cao thì cách mặt đất chừng chục mét. Hoa thuộc loại dây leo, nở lâu sắp tàn thì màu tím nhạt dần rồi biến thành màu trắng; khi chưa nở, nụ hoa trông giống như những hạt đậu màu tím. Có lẽ vì thế người ta gọi là cây đậu tía. Hoa còn có tên khác, đẹp hơn. Hoa Tử Đằng. Có người giải thích, Tử là màu tím; Đằng là chữ dùng chung cho loại dây leo.
Đó là một buổi sáng thứ Hai băng giá ở Matxcơva. Bên trong Viện Văn hóa Nhà nước của thành phố, Yuri Kot quyết tâm khơi ngọn lửa trong lớp. “Là người Nga nghĩa là gì?” ông gầm lên, nghiêng người về phía trước và nhìn chằm chằm vào các sinh viên. Kot – một người đàn ông 47 tuổi tóc vàng, trông giống một con gấu với những tuyên truyền yêu nước đã khiến ông trở thành khách mời nổi tiếng trên các chương trình truyền hình Nga – là trưởng khoa báo chí của học viện này.
Tìm được một nụ cười trên môi một người VN lưu vong vào tháng 4 hàng năm không dễ dàng. Cả 30 ngày của tháng tư, "những ngày mây xám giăng trên đỉnh trời", hình ảnh những người đã bỏ mình cho 20 năm tự do của miền Nam, những người mãi mãi nằm lại dưới đáy đại dương , không đặt chân được bến bờ tự do hiện về trong ký ức của chúng tôi rõ mồn một như mới hôm qua.
Nguyên tác của bản dịch là “The Vietnam War and its Conclusions”, một trích đoạn trong tác phẩm Leadership -- Six Studies in Wold Strategy của Henry Kissinger do Nhà xuất bản Penguiun Press, New York ấn hành năm 2022, (trang 149-63). Trong bài viết, Kissinger nêu lên chiến lược nguyên thuỷ khi đàm phán của Richard Nixon đề ra là binh sĩ Mỹ và Bắc Việt phải cùng lúc rút ra khỏi miền Nam. Nhưng khi dự thảo cho Hoà ước Paris, có sự thay đổi điều kiện là Lê Đức Thọ chỉ chấp thuận cho việc binh sĩ Mỹ đơn phương ra đi trong khi binh sĩ Bắc Việt được tiếp tục đồn trú tại miền Nam. Kissinger không giải thích tại sao phải chấp nhận điều kiện này. Trong cuốn sách Kissinger’s Betrayal: How America Lost the Vietnam War do Nhà xuất bản Real Clear Publishing ấn hành vào tháng 4 năm 2023, Stephen B. Young có phát hiện một sự thật khác: Kissinger đã qua mặt cả Nixon khi tự ý đề ra điều kiện cho binh sĩ Bắc Việt ở lại.
Một quy hoạch vùng cho hệ thống cao tốc đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước đã được phê duyệt, thực ra công trình giao thông này đã đến với dân chậm mất vài thập niên vì quy hoạch này đã sớm phải là một trong những ưu tiên cao nhất quốc gia...
Trong cuộc chiến 1954-1975 giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở Bắc Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa ở Nam Việt Nam, khi tình hình càng ngày càng căng thẳng và bất lợi cho Nam Việt Nam, thì Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, một nước cộng sản, mở cuộc vận động ngoại giao nhằm tránh sự sụp đổ của Nam Việt Nam. Đây là một diễn biến khá bất thường, nên để tìm hiểu việc nầy, xin quay trở lại chủ trương ngoại giao của CHND Trung Hoa từ năm 1954 về vấn đề Đông Dương.
✱ ĐS Martin: Tôi nói, tôi có cảm giác rằng nếu ông không có quyết định sớm, các tướng lãnh của ông sẽ yêu cầu ông ra đi - tôi đoán là ông ta sẽ sớm ra đi bằng cách này hay cách khác. Nếu các tướng lãnh của ông ta cho thêm vài ngày nữa - và rằng nếu ông không hành động sớm, các sự kiện sẽ ập đến với ông. ✱TT Thiệu: Cái bản văn hiệp định đó là bản văn hiệp định Hoa Kỳ bán miền Nam Việt Nam cho cộng sản – tôi nói với ông Ngoại trưởng Kissinger lúc đó nếu như ông chấp nhận bản hiệp vì lý do riêng tư tôi không biết, nể nang nhau, đổi chác nhau, đem quyền lợi sinh mạng của dân tộc miền Nam này ra bán – chớ tôi là người Việt Nam, tôi không chấp nhận - Nếu tôi không có thiện chí đàm phán thì làm sao hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 được ký kết? Mặc dù thỏa thuận đó là một thỏa thuận què quặt, tôi phải chấp nhận nó. ✱ TT Thiệu: Người Mỹ... thất hứa, thiếu công bằng, thiếu chính nghĩa, vô nhân đạo đối với một đồng minh đang chịu đau khổ, trốn tránh trách nhiệm của một đại cường...
Rõ ràng là các gen của quý vị và vợ/chồng của quý vị sẽ xác định giới tính của con cái quý vị. Nhưng quý vị có biết rằng gen xác định giới tính mà quý vị truyền lại cho con cái có thể đã được truyền lại từ ông của chúng không?
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.