Hôm nay,  

Putin! Ông Là Ai?

29/05/200500:00:00(Xem: 6243)
Từ năm 2000 sau khi ông Valadimir Putin trở thành tổng thống Liên bang Nga, thế giới trông chờ một Liên bang Nga nhanh chóng hội nhập vào cộng đồng thế giới. Sau 10 năm dưới Boris Yeltsin, Liên bang Nga đã đi vào con đường đa nguyên chính trị và kinh tế thị trường. Có một số khó khăn vì sự mở cửa cho kinh tế thị trường thiếu kế hoạch tạo nên sự mất thăng bằng trong sinh hoạt kinh tế quốc gia, và người ta chờ đợi ông tổng thống trẻ tuổi Putin sẽ dần dần điều chỉnh.
Một vài chính sách của tổng thống Putin có mang lại sự lo âu như cuộc đàn áp thô bạo cuộc đấu tranh giành quyền tự trị của Chechnya, việc giới hạn tự do báo chí trong nước, việc bắt giữ nhà tài phiệt Khodorkovsky, việc can thiệp vào nội bộ của Ukraine… Tuy nhiên thế giới Tây phương vẫn hy vọng rằng đó là những điều bất đắc dĩ tổng thống Putin phải làm để bảo tồn sự toàn vẹn lãnh thổ, kiểm soát sự tự do quá trớn và thu hồi lại cho quốc gia những gì của quốc gia đã lọt vào túi riêng trong thời gian mở cửa thiếu luật lệ.
Nhưng càng chờ đợi càng thất vọng. Mấy tháng trước đây khi nghe tổng thống Putin tuyên bố: “Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết là tai họa địa lý chính trị lớn nhất của thế kỷ 20”, người ta thấy cái chóp của tảng băng độc tài bắt đầu ló dạng.
Trong tất cả những biến cố của thế kỷ 20, sự dẹp bỏ chế độ cộng sản tại Liên bang Xô viết, cất bỏ bức màn sắt, giải phóng Đông Âu là điều tốt đẹp nhất của thế kỷ. Biến cố đó khai thông con đường tự do dân chủ và nhân quyền trên toàn thế giới, và là một món quà lớn của thế kỷ ông Mikhail Grobachev dâng hiến cho thế giới và đất nước của ông. Thế nhưng ông Putin đã phủ nhận hành động tốt đẹp đó. Nó cho chúng ta một dữ kiện độc đáo về tư duy thiếu lành mạnh của tổng thống Putin, và từ đó một bức tranh về con người ông.
Thủ đoạn của tổng thống Putin trong việc bắt giữ và truy tố nhà tài phiệt Khodorkovsky trong tháng 10 năm 2003 càng ngày càng hiện rõ. Ông Putin đã đưa ông Khodorkovsky ra tòa về tội trốn thuế, biển thủ, hối lộ và điều khiển một tổ chức tội phạm. Tòa án đang xử ông. Ông Khodorkovsky xuất thân từ một gia đình trung lưu, có học, năng động và nhiều sáng kiến, tham gia phong trào thanh niên cộng sản thời Gorbachev, và ông đã biết nắm lấy cơ hội kinh tế thị trường trong thập niên 1990 và trở thành một nhà triệu phú, một oligarchy của Liên bang Nga thời hậu cộng sản. Ông Khodorkovsky sở hữu hãng dầu lửa Yukov là hãng dầu lớn nhất Liên bang Nga, kiểm soát một phần truyền thông và khai thác tối đa sinh hoạt dân chủ tại nghị trường để bảo vệ quyền lợi của mình. Ông trở thành cái gai của tổng thống Putin khi ông Putin nghi ông Khodorkovsky có ý định tranh cử tổng thống năm 2004. Và ông Putin đã dùng mọi quyền lực ông có trong tay để truy tố và hủy diệt ông Khodorkovsky. Công tố viện Nga đã dùng mọi đòn phép tư pháp để làm cho công ti dầu lửa trở lại nằm dưới sự kiểm soát của chính phủ và ông Khodorkovsky phá sản.
Tại một tòa án nhỏ của quận Meshchansky tại Mạc Tư Khoa xử ông Khodorkovsky tuy cũng có quan tòa, có công tố, có luật sư bào chữa, nhưng hết sức buồn tẻ. Trong khi công tố đọc cáo trạng quan tòa ngồi như ngủ làm cho các quan sát viên nhớ lại cảnh các phiên tòa “cho có lệ” (show trial) thời Stalin với tổ chức mật vụ trong tay của các hung thần Nicolai Ezhov và Lavrenti Beria.
Đành rằng công tố không bịa ra tất cả tội lỗi của ông Khodorkovsky. Ông ta đã phạm một số sơ hở để cho ông Putin khai thác. Nhưng Putin thừa hiểu rằng lỗi không phải hoàn toàn do ông Khodorkovsky mà do cơ hội và những lỗ hổng của luật pháp dưới thời mở rộng cửa của Boris Yeltsin. Nếu được bảo vệ bởi luật pháp công minh thì sau khi trả giá những quá đáng của mình ông Khodorkovsky còn có nhiều khả năng đóng góp cho quốc gia và không làm cho những người Nga có khả năng cũng như các nhà đầu tư nước ngoài sợ hãi. Việc truy tố và với một bản án nặng chờ đợi ông Khodorkovsky có thể sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế nước Nga. Người Nga sẽ nhớ lại thời đại công an trị của Nga Hoàng và nhất là dưới thời đại Stalin mà dân chúng thường truyền khẩu rằng nguyên tắc cai trị nước Nga là: “hãy chỉ cho tôi bất cứ một người nào tôi sẽ viết một bản án có chữ ký của người đó”.

Một quốc gia muốn vươn lên cần nhìn lại lịch sử, ưu điểm để học, khuyết điểm để tránh và cần can đảm tháo gỡ xiềng xích tinh thần. Nam Phi đã công khai kết án chính sách apartheid, Đức với việc giết người Do Thái, Nhật với việc bạo tàn khi xâm lăng Trung quốc, và ít nhất như Trung quốc đối với các lỗi lầm của Mao Trạch Đông trong cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Liên bang Nga trái lại chưa một lần ghi nhận khuyết điểm của thời đại Stalin. Tháng Năm qua Liên bang Nga đã tổ chức lễ kỷ niệm 60 năm thắng Đức quốc xã một cách rầm rộ tốn kém để nhắc lại công trạng của Liên bang Nga chiến thắng Đức quốc xã, một sự chiến thắng Liên bang Nga đã trả giá bằng 27 triệu quân và dân. Nhưng Liên bang Nga đã làm ngơ trước những quá đáng của Stalin.
Putin chưa làm và sẽ không bao giờ làm vì qua quá trình đào tạo Putin không phải là một người dân chủ, ông ta là một sản phẩm của độc tài. Có thể ông ta sẽ thành công làm cho Liên bang Nga được nể sợ hơn nhưng cái giá nhân dân Liên bang Nga phải trả sẽ không nhỏ.
Ông Donald Rayfield trong phần kết luận cuốn sách Stalin and his Hangmen của ông, đã viết:
“Liên bang Xô viết chưa ra khỏi cơn bệnh tâm thần vì chưa nhìn nhận lỗi lầm quá khứ. Khruchev tố cáo tội ác của Stalin cốt để củng cố quyền hành, vì bàn tay ông cũng từng nhuốm máu. Trong quan niệm của Khruchev và Brezhnev những người Trotskyists bị Stalin giết là phải. Những kẻ sống sót các trại tập trung Gulag cũng như thân nhân của những người bị tàn sát bởi Stalin chưa bao giờ được bồi thường xứng đáng ngoài một bằng ghi nhận và một tháng lương. Khi các sử gia hay các nhà văn Nga đào sâu vào các tội ác của Stalin lập tức chính quyền thắng lại và dân chúng được khuyến cáo chớ quên công lao của Lenin và một số chính sách đúng đắn của Stalin. Dưới thời đại perestroika của Gorbachev các sử gia phanh phui hồ sơ mật và phơi bài bày các mồ chôn tập thể của thời Stalin, thì cơ quan FSB (hậu thân của KGB) tìm cách ngăn cản và sau cùng cấm đoán vì lý do an ninh quốc gia.
Một điều kỳ lạ là dân chúng Nga vẫn còn tin rằng những quá đáng của Stalin là do hai bàn tay khát máu Ezov và Beria, và rằng nhiệm vụ của công an mật vụ là bảo vệ an ninh quốc gia. Truyền thông, báo chí và nền giáo dục của Liên bang Nga không hề có một nỗ lực nào để cho dân Nga biết đó không phải là sự thật. Nạn nhân của Stalin vẫn âm thầm đau khổ, trong khi những tay đồ tể được an hưởng tuổi già với trợ cấp phong phú và thỉnh thoảng mang huy chương đầy ngực vênh vang xuất hiện trước công chúng!
Vào năm 2004, Liên bang Nga đang được cai trị bởi một trong những nhân viên mật vụ đó (tên ông ta là Vladimir Putin.) Quá trình đào tạo của ông ta không khác gì Ezov và Beria. Số tù chính trị tại Liên bang Nga lúc này chỉ còn hằng trăm thay vì hằng trăm nghìn như thời đại trước và cơ quan an ninh FSB của Putin không còn phóng tay muốn làm gì thì làm do ảnh hưởng của toàn cầu hóa, nhưng họ vẫn liên kết với những thành phần bất hảo trong nước nắm mọi tài nguyên và quyền lợi của quốc gia, và vẫn còn khả năng bắt giết đàn áp, bỏ tù những công dân lương thiện dám chống lại họ một cách kín đáo. Với thời đại tin học và kinh tế hóa toàn cầu Validimir Putin không có thể bắt giết hay bỏ tù hằng triệu nông dân lương thiện hoặc đàn áp tầng lớp trí thức trong nước như thời đại Stalin nhưng sự đàn áp thô bạo vẫn còn tồn tại tại Liên bang Nga. Chechnya là một thí dụ. Số phận của các nhà báo chân chính và các chính trị gia đối lập khác như Galina Starovoitora, Sergei Iushenkov và Dmitri Kholodov, và sau cùng là Mikhail Khodorkovsky là những thí dụ khác.
Nhân dân Liên bang Nga quá bận tâm với cuộc sống và nghĩ rằng sống sót được sau thời đại Stalin là một phép mầu nên không còn ý chí để đòi hỏi nhà cầm quyền phải tôn trọng dân chủ cũng như nghĩ rằng có thể dùng phiếu để bầu những người tử tế vào chức vụ lãnh đạo.
Quá khứ đang được dấu kín sau các bức tường của các kho lưu trữ hồ sơ, mà các cánh cửa càng ngày càng khép kín. Các tài liệu sử cho con em học không có một dòng chữ nói về tội ác của Stalin. Làm sao chúng biết được"”
Ông Donald Rayfield kết luận: “Chừng nào dân chúng Nga chưa biết những tội lỗi quá khứ của những nhà lãnh đạo của mình, chừng nào cộng đồng thế giới chưa áp lực được Liên bang Nga phơi bày sự thật, ngày đó Liên bang Nga còn là một quốc gia bệnh hoạn, vẫn còn bị những hình ảnh quỷ quái hung bạo của Stalin và tập đoàn sát nhân của ông ta ám ảnh. Và nếu chúng được sống lại thì không phải là điều đáng ngạc nhiên.”
Trần Bình Nam
May 27, 2005
[email protected]
http://www.vnet.org/tbn
Tài liệu tham khảo:
1.“Stalin and his Hangmen” by Donald Rayfield, published by Random House, New York, 2004
2. “The Khodorkovsky case”, The Economist, May 27th, 2005

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Các cuộc thăm dò cho thấy mức độ ủng hộ Trump của cử tri đang ở mức thấp kỷ lục đối với một nhà lãnh đạo sau ba tháng đầu của nhiệm kỳ. Đa số phản đối chính sách thuế quan và cắt giảm lực lượng nhân sự liên bang của ông.
Hành động công kích đầy bất ngờ của Tổng thống Trump nhắm vào nền giáo dục đại học đã vô tình đánh thức tinh thần phản kháng của Harvard cùng hơn 100 trường đại học trên khắp 40 tiểu bang. Sự kiện này cũng để lại một bài học đáng suy ngẫm: nhượng bộ và đầu hàng trước những áp lực ngang ngược, vô lý không phải là cách tồn tại bền vững cho bất kỳ tổ chức nào. Sự việc khởi đầu với lá thư ngày 11 tháng 4 từ chính quyền Trump, trong đó đưa ra hàng loạt yêu cầu đối với Đại học Harvard. Ngay lập tức trường Harvard từ chối, vậy là chính phủ thẳng tay đóng băng khoản ngân sách tài trợ trị giá 2.3 tỷ MK. Ngoài ra, Trump còn dọa tước bỏ quy chế miễn thuế của trường. Hành động này bị nhiều người xem là sự lạm quyền nhằm chi phối một cơ sở giáo dục tư thục, và đã vô tình khơi dậy làn sóng ủng hộ quyền tự chủ của các đại học trên khắp Hoa Kỳ.
"Tự do tư tưởng và tìm kiếm sự thật, cùng với sự cam kết lâu đời của chính phủ trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền này, đã giúp các trường đại học đóng góp một cách thiết yếu cho xã hội tự do và cuộc sống lành mạnh, thịnh vượng hơn cho mọi người ở khắp các mọi nơi. Tất cả chúng ta đều có chung lợi ích trong việc bảo vệ sự tự do đó. Như lệ thường, chúng ta tiến bước lúc này với niềm tin rằng việc theo đuổi chân lý can đảm và không bị ràng buộc sẽ giải phóng nhân loại, và với niềm tin vào lời cam kết bền bỉ mà các trường cao đẳng và đại học của Hoa Kỳ đã gìn giữ cho quốc gia và thế giới của chúng ta."
Phải làm gì với một Tổng thống Hoa Kỳ không tôn trọng luật pháp của chính quốc gia mình? Vấn đề này nổi lên sau vụ việc chính quyền Trump phớt lờ phán quyết của tòa án liên bang, vẫn để các chuyến bay trục xuất người Venezuela khởi hành đến El Salvador dù tòa đã ra lệnh đình chỉ toàn bộ các chuyến bay đó. Hành động này cho thấy sự thách thức công khai đối với quyền lực tư pháp, và phản ánh sự thiếu hiểu biết (hoặc cố tình phớt lờ) nguyên tắc tam quyền phân lập, vốn là nền tảng của thể chế Hoa Kỳ. Theo Hiến pháp, một tổng thống không có quyền bác bỏ hay phớt lờ phán quyết của tòa án.
Lệnh hành pháp khi được công bố luôn tạo nhiều dư luận trái chiều. Lệnh càng ảnh hưởng nhiều người thì tranh cãi càng kéo dài. Gần đây trong một buổi họp mặt, một người bạn của tôi thốt tiếng than: “Chẳng hiểu thành viên Quốc hội Mỹ của cả hai đảng bây giờ làm gì mà cứ im lìm để tổng thống muốn ra lệnh gì thì ra”. Người khác thắc mắc, nếu tổng thống dùng lệnh hành pháp để đưa ra những quyết định không đúng luật, hay trái với hiến pháp, thì cơ quan nào sẽ có trách nhiệm can thiệp? Bài viết này không phân tích một lệnh hành pháp cụ thể nào, mà chỉ nhằm giải thích cách vận hành của Executive Order, quy trình thách thức nếu cần, cũng như những giới hạn của một mệnh lệnh do tổng thống ban hành.
Medicaid đang trở thành một trong những mục tiêu đầu tiên của chính quyền Trump trong chiến dịch cắt giảm ngân sách liên bang. Là chương trình bảo hiểm y tế do liên bang và tiểu bang phối hợp thực hiện, Medicaid cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho hơn 72 triệu người dân Hoa Kỳ, bao gồm những người có thu nhập thấp, trẻ em và người tàn tật. Ngoài ra, Medicaid cũng góp phần hỗ trợ chi phí chăm sóc lâu dài cho người cao niên.
Gần đây, nhiều hình ảnh và video lan truyền trên mạng xã hội đã khiến dư luận quốc tế kinh hoàng: hàng loạt sà lan quân sự khổng lồ của TQ – loại phương tiện chuyên dụng cho các chiến dịch đổ bộ từ đất liền ra biển – lần đầu tiên lộ diện. Ngay sau đó, vào ngày 1 tháng 4 năm 2025, Bắc Kinh tiến hành cuộc tập trận quân sự kéo dài hai ngày ở eo biển Đài Loan. Điều này càng làm dấy lên lo ngại: Liệu TQ có đang chuẩn bị một cuộc xâm lược kiểu D-Day vào Đài Loan?
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.