Hôm nay,  

Điện Biên Phủ đem đến gì?

18/02/202200:00:00(Xem: 4263)

 

DBP-trang-nhat-1
Hình vẽ Đại Đế Alexandre.
  
331 năm trước Công nguyên, ngay sau chiến thắng Gaugamèles khi tiến vào thành Babylone, đại đế Alexandre nói trước hàng quân: “Chiến thắng này cho vinh quang và tự do”. Võ Nguyên Giáp khó tuyên ngôn như vậy trước lịch sử, vì Điện Biên Phủ không đem đến tự do cho dân Việt mà ngược lại, áp đặt một chế độ tàn khốc. Tự do nào sau đấu tố phi nhân, sau Cải cách ruộng đất, nông dân chỉ có thể cày thuê cho hợp tác xã? Và tự do nào khi dân Bắc di cư rồi dân Nam chạy theo lính Cộng hòa mỗi một khi “giải phóng” vùng “tạm chiếm”?

DBP-trang-nhat-2
Võ Nguyên Giáp.
 
Võ Nguyên Giáp hẳn nhiên muốn giữ lại vế đầu của Alexandre đại đế: “Điện Biên Phủ là một chiến thắng vinh quang.” Tất nhiên và không ai chối cãi, vì lần đầu tiên da vàng chiến thắng da trắng và lần đầu tiên một thuộc địa thắng đế quốc. Nhưng phía sau tấm huân chương là vinh quang cay nghiệt: Đẩy cả một dân tộc vào chiến tranh, mục đích của Hồ Chí Minh là giành độc lập, thống nhất 3 kỳ, nhưng Hiệp định Genève chỉ cho Hồ Chí Minh Bắc kỳ, Nghệ Tĩnh và Quảng Bình, ít hơn so với Hiệp ước Sơ bộ 1946 cho tự trị 2 miền Trung-Bắc, đến tận Phan Thiết. Đó là về đất đai, còn mục tiêu tối thượng – giành Độc Lập – tức giành quyền tự quyết quốc gia, Hồ Chính Minh đã đánh mất ngay tức khắc vào tay Bắc Kinh ngay khi tiếng súng vừa ngưng, còn nồng mùi tử khí.
 
Những ai chưa muốn tin, chỉ cần đọc lại Trận Đánh 30 Năm, tập 2, Nxb QĐND 1985, Ban Ký sự Lịch sử Tổng cục Chính trị do đại tướng Hoàng Văn Thái và trung tướng Trần Độ chỉ đạo, trang 461 và 462: “Đoàn Trung quốc đến Giơ-ne-vơ gồm 200 người, đông như một đạo quân. Họ muốn chứng minh họ là một nước lớn, mọi vấn đề có sự tham gia của Trung quốc mới có thể giải quyết thuận lợi. Lập trường của những người lãnh đạo Trung quốc gần giống của Pháp, nghĩa là một giải pháp theo kiểu Triều Tiên cho cuộc chiến tranh Đông Dương, tức là đình chiến về quân sự mà không có giải pháp đầy đủ về chính trị. Trung quốc quan tâm hàng đầu đến việc tạo ra một khu đệm ở sườn phía Nam, cách ly với Mỹ bằng những nước không có căn cứ quân sự của Mỹ, tránh được sự đụng đầu trực tiếp với Mỹ, đồng thời muốn hạn chế thắng lợi của Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương, hòng làm suy yếu và dần dần thôn tính ba nước đó, dùng làm bàn đạp bành trướng xuống Đông Nam Á. […] Trước tình hình diễn biến cụ thể của hội nghị, nhất là vì Trung quốc đã thỏa hiệp với Pháp, xuất phát từ truyền thống yêu chuộng hòa bình, tôn trọng nguyện vọng của các nước XHCN và nhân dân thế giới muốn có hòa bình, chúng ta đã chấp thuận giải pháp cuối cùng của hội nghị.”

DBP-trang-nhat-3
Cuốn sách nói về “Trận Đánh Ba Mươi Năm” và Võ Nguyên Giáp
 
“Giải pháp cuối cùng” là vĩ tuyến 17. Một vĩ tuyến làm Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh cảm giác “thất thu”, chính vì Việt Minh đang chiếm Tây nguyên, Đồng Tháp, Bình Trị Thiên cùng 3/4 diện tích Bắc phần, đánh tiếp quân Liên hiệp Pháp không thể thắng. 9 năm chiến tranh đã chứng minh sức ung thối các vùng đất quốc gia của Việt Minh không thể đảo hồi. Đánh tiếp, toàn bộ đất Việt sẽ rơi vào tay Việt Minh, nhưng Genève ngăn Hồ Chí Minh vượt qua Đồng Hới và cho Quân đội Quốc gia thời gian hoàn bị.
 
Võ Nguyên Giáp kể lại khi Chu Ân Lai thông báo chia đôi ở vĩ tuyến 17: “Bác và chúng tôi đều ngỡ ngàng. Phải chăm chú tìm trên bản đồ mới thấy dòng sông nhỏ Bến Hải ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị. Bác nói: với so sánh lực lượng trên thực tế chiến trường hiện nay, ta đề ra vĩ tuyến 13 (Phú Yên) là hợp lý, vĩ tuyến 17 đối với ta là không thể chấp nhận, chí ít cũng phải giành được vĩ tuyến 16 (Đà Nẳng).”  (Võ Nguyên Giáp, Điểm hẹn Lịch sử, trang 407, Nxb QĐND, 2001)

DBP-trang-nhat-4
Cuốn sách nói về “Trận Đánh Ba Mươi Năm” và Võ Nguyên Giáp
 
Quyết tâm của “Người” là vậy, nhưng vì sao cuối cùng Phạm Văn Đồng vẫn phải ký vào hiệp định? Vì đã đánh mất độc lập chính trị vào tay Mao. Trong lúc, trưởng đoàn Quốc gia Trần Văn Đỗ đã không ký để phản đối áp đặt thể chế Cộng sản lên miền Bắc, bất chấp áp lực từ phía Pháp. Thủ tướng Mendès France cay đắng: “Cộng sản gọi họ là bù nhìn của chúng ta, nhưng chúng ta không thể ra lệnh cho họ ký bất kỳ điều gì.”(Les communistes les appellent nos marionnettes, mais nous ne pouvons pas leur ordonner de signer quoi que ce soit.)
 
Trở lại với Trận Đánh 30 Năm, Ban Ký sự Lịch sử Tổng cục Chính trị chỉ có thể công khai “Trung quốc muốn hạn chế thắng lợi của Việt Nam, chia rẽ ba nước Đông Dương, hòng làm suy yếu và dần dần thôn tính ba nước đó, dùng làm bàn đạp bành trướng xuống Đông Nam Á…” trong bối cảnh chiến tranh biên giới 1979 vừa xảy ra và Hà Nội còn thù nghịch với Bắc Kinh. Sau đó Hoàng Văn Thái đột tử, còn Trần Độ bị khai trừ khỏi Đảng, một Trần Độ đã nhận ra: “Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ còn có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp.” (Trần Độ, Nhật Ký Rồng Rắn, 2001)
 
Võ Nguyên Giáp nhận ra gì? Ở chủ nghĩa Mao, Mác, Lê-Nin? Qua Hồi ức, ông vẫn tin Điên Biên Phủ là “cây cột mốc bằng vàng”, là “những tiếng vang vang tự hào”, với một tấm lòng tri ân sắt son Trung quốc. Ông không nhìn thấy mặt trái của hào quang: Lệ thuộc vũ khí khiến trở thành chư hầu. Sẽ phải triều cống đất đai và biển cả để trả nợ. Chế độ sắt máu toàn trị mà ngay cả chính ông cũng sợ hãi về sau. Là những gì Điện Biên Phủ đem đến. Võ Nguyên Giáp không muốn nhìn vào thực tế: Dân Việt được gì với một giai cấp cung đình tha hóa tự cho mình quyền cai trị vĩnh viễn đất nước, vì đã chiến thắng Điên Biên Phủ? Các sắc tộc thiểu số sinh sống trên miền Cao, quanh thung lũng Mường Thanh, được gì sau “lẫy lừng Điện Biên”?
 
Mở bất kỳ trang báo quốc nội nào cũng dễ dàng tìm thấy “những cái chết trắng”, chuỗi “đám tang không đàn ông”, những án tử hình, những cửu vạn đánh hàng sang Trung quốc rồi buôn lậu ngược về bị bắt, tỷ lệ tội ác, tội phạm ma túy cao ngất ngưỡng ở các bản làng Mường Pôn, Mường Né, Mường Tè, Mường Giang, Mường Lèo, Mường Chà…
 
Tìm trên internet “tỉnh nghèo nhất Việt Nam”, hiện ra:
 
Điện Biên – Tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước
 
“Điện Biên là một tỉnh nằm ở vùng Tây Bắc, miền Bắc Việt Nam. Giáp với các tỉnh Lai Châu và Sơn La của Việt Nam, Vân Nam của Trung Quốc ở phía Bắc, Phongsaly của Lào ở phía Tây, các huyện Pak Xeng, Pak Ou thuộc tỉnh Luangprabang của Lào ở phía Tây Nam.
 
Điện Biên là tỉnh giàu tiềm năng du lịch, đặc biệt là lĩnh vực văn hoá – lịch sử. Nổi bật nhất là hệ thống di tích lịch sử chiến thắng Điện Biên Phủ gồm: Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ – Mường Phăng; Các cứ điểm Him Lam, Bản Kéo, Độc Lập; Các đồi A1, C1, D1, E1 và khu trung tâm tập đoàn cứ điểm của Pháp (Khu hầm Đờcát). Nhưng hiện nay tỉnh Điện Biên vẫn thuộc diện đặc biệt khó khăn. Với hơn 90% dân cư là nông dân, chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp. Với tỷ lệ nghèo 38,25%, cận nghèo 6,83%, Điện Biên đang là tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước.”
 
Sơn La – Một trong 3 tỉnh nghèo nhất Việt Nam
 
“Sơn La là tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, tỉnh có diện tích 14.125  km² chiếm 4,27% tổng diện tích Việt Nam, đứng thứ 3 trong số 63 tỉnh thành phố. Có hơn 92.000 hộ nghèo, nên Sơn La cũng được xem làm một trong 3 tỉnh nghèo nhất Việt Nam. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội của UBND tỉnh Sơn La cho biết, Sơn La còn tới hơn 36.000 người thiếu đói. Sơn La hiện vẫn là một trong những tỉnh nghèo của cả nước. Toàn tỉnh có 11 huyện và 1 thành phố thì có tới 5 huyện nghèo thuộc chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững của Chính phủ (Chương trình 30a).”
 
Tiếp đến là Hà Nam – tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất đồng bằng sông Hồng; Quảng Bình – tỉnh nghèo nhất Bắc Trung bộ; Quảng Nam – tỉnh nghèo nhất duyên hải miền Trung…  
 
Điện Biên Phủ đem đến gì? Là câu hỏi theo Võ Nguyên Giáp xuống đáy mồ. 


Trần Vũ
 


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
"Tự do tư tưởng và tìm kiếm sự thật, cùng với sự cam kết lâu đời của chính phủ trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền này, đã giúp các trường đại học đóng góp một cách thiết yếu cho xã hội tự do và cuộc sống lành mạnh, thịnh vượng hơn cho mọi người ở khắp các mọi nơi. Tất cả chúng ta đều có chung lợi ích trong việc bảo vệ sự tự do đó. Như lệ thường, chúng ta tiến bước lúc này với niềm tin rằng việc theo đuổi chân lý can đảm và không bị ràng buộc sẽ giải phóng nhân loại, và với niềm tin vào lời cam kết bền bỉ mà các trường cao đẳng và đại học của Hoa Kỳ đã gìn giữ cho quốc gia và thế giới của chúng ta."
Phải làm gì với một Tổng thống Hoa Kỳ không tôn trọng luật pháp của chính quốc gia mình? Vấn đề này nổi lên sau vụ việc chính quyền Trump phớt lờ phán quyết của tòa án liên bang, vẫn để các chuyến bay trục xuất người Venezuela khởi hành đến El Salvador dù tòa đã ra lệnh đình chỉ toàn bộ các chuyến bay đó. Hành động này cho thấy sự thách thức công khai đối với quyền lực tư pháp, và phản ánh sự thiếu hiểu biết (hoặc cố tình phớt lờ) nguyên tắc tam quyền phân lập, vốn là nền tảng của thể chế Hoa Kỳ. Theo Hiến pháp, một tổng thống không có quyền bác bỏ hay phớt lờ phán quyết của tòa án.
Lệnh hành pháp khi được công bố luôn tạo nhiều dư luận trái chiều. Lệnh càng ảnh hưởng nhiều người thì tranh cãi càng kéo dài. Gần đây trong một buổi họp mặt, một người bạn của tôi thốt tiếng than: “Chẳng hiểu thành viên Quốc hội Mỹ của cả hai đảng bây giờ làm gì mà cứ im lìm để tổng thống muốn ra lệnh gì thì ra”. Người khác thắc mắc, nếu tổng thống dùng lệnh hành pháp để đưa ra những quyết định không đúng luật, hay trái với hiến pháp, thì cơ quan nào sẽ có trách nhiệm can thiệp? Bài viết này không phân tích một lệnh hành pháp cụ thể nào, mà chỉ nhằm giải thích cách vận hành của Executive Order, quy trình thách thức nếu cần, cũng như những giới hạn của một mệnh lệnh do tổng thống ban hành.
Medicaid đang trở thành một trong những mục tiêu đầu tiên của chính quyền Trump trong chiến dịch cắt giảm ngân sách liên bang. Là chương trình bảo hiểm y tế do liên bang và tiểu bang phối hợp thực hiện, Medicaid cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho hơn 72 triệu người dân Hoa Kỳ, bao gồm những người có thu nhập thấp, trẻ em và người tàn tật. Ngoài ra, Medicaid cũng góp phần hỗ trợ chi phí chăm sóc lâu dài cho người cao niên.
Gần đây, nhiều hình ảnh và video lan truyền trên mạng xã hội đã khiến dư luận quốc tế kinh hoàng: hàng loạt sà lan quân sự khổng lồ của TQ – loại phương tiện chuyên dụng cho các chiến dịch đổ bộ từ đất liền ra biển – lần đầu tiên lộ diện. Ngay sau đó, vào ngày 1 tháng 4 năm 2025, Bắc Kinh tiến hành cuộc tập trận quân sự kéo dài hai ngày ở eo biển Đài Loan. Điều này càng làm dấy lên lo ngại: Liệu TQ có đang chuẩn bị một cuộc xâm lược kiểu D-Day vào Đài Loan?
Khi nhìn lại nửa thế kỷ Phật giáo Việt Nam hiện diện trên miền đất hứa, Hoa Kỳ, ta thấy con đường chánh niệm tỉnh thức không khởi nguồn từ một dự tính định sẵn, mà từ sự kết tinh của hoàn cảnh, của tâm nguyện và của những bước chân tìm về cõi an trú giữa bao biến động. Bởi nó như một dòng suối len lỏi qua những biến động của thời cuộc, chảy về một phương trời xa lạ, rồi hòa vào biển lớn. Từ những hạt giống gieo xuống trong lặng lẽ, rồi một ngày trổ hoa giữa lòng những đô thị phương Tây, nơi mà có lúc tưởng chừng như chỉ dành cho lý trí và khoa học, cho tốc độ và tiêu thụ, cho những bộ óc không còn kiên nhẫn với những điều mơ hồ. Nhưng rồi, giữa cái đa đoan của thế giới ấy, những lời dạy về chánh niệm, về thở và cười, về sự trở về với chính mình đã nảy mầm và lan rộng như một cơn mưa đầu hạ, làm dịu đi những khô cằn của tâm hồn.
Kể từ ngày biến cố lịch sử 30/4/75, 50 năm trôi qua, đã có không biết bao nhiêu sách vở nói về cái ngày bi thương đó của dân tộc Việt Nam, nhưng có lẽ không gì trung thực và sống động cho bằng chính những bản tường trình trên báo chí vào đúng thời điểm đó từ những phóng viên chiến trường tận mắt chứng kiến thảm cảnh chưa từng có bao giờ của hàng trăm ngàn người, dân cũng như quân, liều mình xông vào cõi chết để tìm cái sống. Năm 2025, đánh dấu 50 năm biến động lịch sử đó, Việt Báo hân hạnh được đăng tải loạt bài viết của ký giả Đinh Từ Thức ghi lại chi tiết từng ngày, đôi khi từng giờ, những điều xảy ra trong mấy tuần lễ trước và sau ngày 30/4/75 để chúng ta có cơ hội cùng sống lại những giờ khắc bi thảm và kinh hoàng ấy đã xảy ra như thế nào.
Năm Carlton Terry 12 tuổi, hệ thống trường học tại Quận Prince Edward, bang Virginia, bất ngờ đóng cửa đối với tất cả trẻ em người da đen. Nhớ lại năm đầu tiên ấy, ông kể: “Tất cả những gì tôi biết là tôi không được đến trường, và tôi biết lý do tại sao. Tôi nhận ra rằng hệ thống pháp luật được tạo ra không phải để bảo vệ tôi. Tôi nhớ những ngày ngồi nhà, sững sờ trước màn hình TV, xem chương trình Amos ’n’ Andy. Mỗi ngày, tôi đọc báo để xem liệu có gì thay đổi hay không.”
Ngày 3 tháng 4, 2014 là ngày mất của nhà đấu tranh Ngô Văn Toại. Mời đọc lại bài phóng sự SV Ngô Vương Toại bị Việt Cộng bắn tại trường Văn Khoa SG hôm tổ chức đêm nhạc Trịnh Cộng Sơn - Khánh Ly tháng 12, năm 1967, Sài Gòn.
Theo thời gian, từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến nay, số lượng Tăng, Ni đến định cư ở Mỹ ngày càng đông, theo diện vượt biển và vượt biên tị nạn Cộng Sản (từ 1975 đến 1989), theo Chương Trình Ra Đi Trật Tự (Orderly Departure Program - ODP) và Chiến Dịch Nhân Đạo (The Humanitarian Operation - HO) (từ 1980 đến 1997), hay theo diện hỗ trợ sinh hoạt tôn giáo được các chùa, các tổ chức Phật Giáo ở Mỹ bảo lãnh kể từ đầu những năm đầu thiên niên kỷ thứ 3. Các vị Tăng, Ni này định cư ở Mỹ dù thuộc diện nào thì đều mang theo mình sứ mệnh hoằng dương Chánh Pháp của Đức Phật, duy trì và phát huy truyền thống văn hóa của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam tại xứ người. Đây là động lực chính hình thành các cộng đồng Phật Giáo Việt Nam ở Mỹ trải dài nửa thế kỷ qua.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.