Hôm nay,  

Thiếu nước

29/04/202408:04:00(Xem: 3578)
Biên khảo

water

Đất nước là nhu cầu sống thực của con người. Đất dụng canh, nước sinh cư tạo lương thực nuôi con người trong hệ hoàn vũ. Theo công kỹ nghệ gia tổng kết thì ngành nông nghiệp trên thế giới ngày nay đang tiêu thụ với tỷ lệ 65% số lượng nước, công nghiệp chi dụng 25%, và gia cư hao tốn 10%, cùng với số lượng nước hao cạn hàng giờ trong mỗi ngày trên toàn cầu, khi nhiệt độ và thời tiết tăng trưởng.
    Bởi thế nước đã là nước, là nước hằng sống, là vì nước (state) hay nước (water). Không vì dân vì nước thì con người chết đói chết khát, cuộc đời mất nước, thiếu nước, khát nước và thèm nước!
 
I. Thủy Triều Nước Mặn
 
Nhìn lại thập niên trước, khi chính quyền Mễ Tây Cơ phải làm đơn vay nước (water loan) Sông Rio Grande của Hoa Kỳ với số lượng 2.8 triệu khối, đã làm dư luận quốc tế bàn tán xôn xao. Nguyên nhân, vùng Bắc Mễ gặp hạn hán trong suốt ba năm liền và tạo cho đồng bằng sông ngòi kênh rạch cạn nước.
    Thiếu nước đã làm cho chăn nuôi, trồng trọt và mùa màng cũng như lâm ngư của Mễ Tây Cơ bị hủy diệt. Khi nước sông cạn thì nước biển lại tràn vào, và thủy triều nước mặn sẽ tiêu diệt toàn bộ nông sản và ngư sản nước ngọt (fresh water).
    Dân chúng lầm than cơ cực, bịnh hoạn nghèo đói trong cảnh sống với nước phèn, chờ mưa. Theo chương trình ngư nghiệp của Hiệp Ước 1944, Mễ ký kết với Mỹ để được dùng 5% lượng nước sông Rio Grande, đã kiểm soát bởi hệ thống đập thủy điện thủy lợi (hydro dam) ở thượng nguồn Tiểu Bang Texas. Đành rằng vay nước thì trả bằng nông phẩm hoa màu. Nhưng sự kiện mượn nước cũng làm cho chính phủ Hoa Kỳ lo ngại, vì thiếu nước cũng ảnh hưởng tới nông dân Texas.
    Trên thế giới ngày nay có hơn 210 con sông lớn, được xây đập thủy điện thủy lợi trong vài thập niên qua, ít nhất đã có từ 35 năm. Thực tế, các nước thượng nguồn (up-stream) trở nên thịnh vượng chăn nuôi trồng trọt, lương thực dồi dào và có thêm ưu thế quân sự hóa “cái đập” cầm quyền phát nước, trị nước (water control) hạ nguồn (down-stream), là dân cam cảnh nô lệ. Dân hạ nguồn thì đương nhiên phải chịu hưởng giòng ô uế (contaminated water) do những hóa chất độc hại organochlorines, DDT, toxic chemicals… từ phân bón hay thuốc trừ sâu của xứ nông nghiệp thượng nguồn thải ra và đổ xuống giòng sông.
    Theo tài liệu Tổ Chức Lương Nông Thế Giới (The U.N. Food and Agriculture Organization), Liên Hiệp Quốc 1996, với những phát minh tiến bộ khoa học công nghệ như khám phá ra hạt giống mới, phân bón, thuốc trừ sâu, hay hệ thống phun tưới… làm gia tăng sản lượng lương thực, tạo gía thành ngũ cốc giảm hạ, tỷ lệ chết đói của nhân loại xuống thấp. Bình quân khẩu phần lương thực cho mỗi đầu người là 300 kilograms.
    Nhưng điều kiện chưa đủ, chưa phải là niềm hạnh phúc cho nhân loại hôm nay, vì vấn nạn khan hiếm nước đang đe dọa toàn cầu. Mất nước, thiếu nước, khát nước, thèm nước dẫn tới tình trạng khủng hoảng an sinh, yếu kém sức dân, bất an xã hội, biến loạn chính trị, đó là nguyên nhân gây ra chiến tranh.
 
II. Nguyên Nhân Chiến Tranh
 
Nhân loại xưa nay xảy ra chiến tranh tàn sát, tiêu diệt lẫn nhau cũng bởi khát nước, thèm nước, mất nước. Điển hình Cuộc Chiến Sáu Ngày (Six Day War) của Do Thái vào năm 1967, vì cảm nhận nguy cơ thiếu nước, đang khi Syrian phong tỏa giòng Sông Banias một trong ba nhánh của Jordan. Do Thái phải lập tức đánh chiếm hai vùng nước chiến lược, hồ mạch ngầm West Bank và cao nguyên Golan Heights là thượng nguồn chảy xuống đập Jordanian, trước khi đổ ra hai nhánh Yarmouk và Banias.
    Để có thêm bằng chứng về “chiến tranh vì nước,” người viết xin trích dẫn lời tuyên bố của thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ Syleyman Demired trả lời yêu sách khi chia nguồn Euphrates Water với Syrian trước Liên Hiệp Quốc năm 1992, “Chúng tôi không nói chúng tôi chia nguồn dầu hỏa của họ. Thì họ cũng đừng nói muốn chia nguồn nước của chúng tôi (We do not say we should share their oil resources. They cannot say they should share our water resources).” Đó là nước hằng sống, nước vĩnh cửu, và con người không nước thì chết.
 
III. Đồng Bằng Hạ Nguồn
 
Nhìn về quê hương Việt Nam, có thể vì sự di chuyển thuận lợi cho việc định canh định cư trong vùng đồng bằng hạ nguồn của tổ tiên chúng ta ngày trước, như châu thổ Sông Hồng, Đồng Nai, Cửu Long… như điều kiện thiên nhiên cho phép! Nhưng thời đại ngày nay, các xứ nông nghiệp hạ nguồn lâm nạn!
    Trở thành nghèo nàn lạc hậu vì “bị nô lệ” bởi cái đập thượng nguồn. Đang khi quốc tế chưa thể hiện được một chính sách phát nước khả dĩ cân xứng, hòa đồng theo nhu cầu và tiến trình sống chung của nhân loại.
 
1. Nạn Nước Việt Nam
 
Nạn Nước Việt Nam ngày nay. Chứng cớ cụ thể là trường hợp đập Pak Mun, thuộc loại thủy điện thủy lợi cỡ lớn (hydro dam) thượng nguồn Cửu Long (Mekong River) miền Đông Bắc Thái Lan, khánh thành sau thập niên 90 do công ty EGAT (Electricity Generating Authority of Thailand) và Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) tài trợ.
    Và cũng trên lưu lượng thượng nguồn này còn có cả một hệ thống thủy đập của Trung Quốc, của Miến Điện chảy xuống thủy đập của Ai Lao, của Cao Miên… thành ra một giòng với bấy nhiêu cái đập… thì nguồn nước trở thành ô uế (contaminated water), với độc chất sa thải từ các vùng kỹ-nông-lâm-ngư nghiệp chảy xuống Sông Tiền Sông Hậu của Đồng Bằng Cửu Long miền Nam Việt Nam, và trở thành Nguồn nước ô nhiễm! Toàn dân sẽ mắc bệnh ung thư!
 
2. Nguồn Nước Ô Nhiễm
 
Hỡi ơi, mất nước, thiếu nước (fresh water) đang trở thành mối đe dọa, không những chỉ là nước canh tác, mà còn là an sinh của đồng bào ta đang sống trong môi trường hạ nguồn!
    Miền Bắc thì cũng bị mất nước. Trung Quốc vốn sẵn mộng làm quan thái thú đô hộ dân ta ngàn xưa, thì ngày nay Giặc Tàu lại có ưu thế “cái đập,” nhằm mục đích trị nước mang tên “The Three Gorges Dam” từ mãi tận thượng nguồn Sông Hồng (Yangtze River).
     Việt Nam khó mà thoát ách nô lệ quân Tàu! Thiếu nước thì đi vay (water loan), vay mượn thì thành con nợ và trả nợ chồng chất ngập đầu. Vay tiền (money loan) thì trả lãi, và có lẽ còn dễ trả hơn là nợ nước.
 
3. Đi Vay Mượn Nước
 
Nợ nước thì trả bằng nông phẩm, và cả một dân tộc thành con nợ, và trả nợ chẳng khi nào trả cạn! Trường hợp vay nước và trả nợ của Mễ Tây Cơ nói trên đã là một dẫn chứng điển hình cho chúng ta. Chủ nợ Trung Quốc so với Hoa Kỳ còn độc địa và nghiệt ngã bao vạn lần!
     Cũng theo tài liệu Liên Hiệp Quốc, thế giới có hơn 38,000 thủy đập, và riêng Trung Quốc chiếm hơn nửa số thủy đập đó. Chúng ta thấy ngay cái cảnh thiếu nước và bao nỗi khó khăn trong việc giữ nước của đồng bào quê hương mình.
     Việc “giữ nước” lại cần phải có sức dân sức nước, tức kết hợp toàn dân toàn diện trong một khối hơn 100 triệu người trong nước và hải ngoại và có hồn dân hồn nước để giữ nước... thì mới có toàn dân vi binh, toàn địa vi phòng, toàn tài vi dụng, toàn quốc vi chính! Từ những vấn đề như vay nước, lọc nước, dùng nước… nước uống cho chí nước tiêu dùng trong nông nghiệp, công nghiệp, tín nghiệp mới được ứng dụng theo tiêu chuẩn.
     Việt Nam là nước hạ nguồn, bị nô lệ bởi thiên nhiên là lẽ tất nhiên. Nhưng việc giữ nước lại do khả năng con người qua những chính sách sáng tạo để ứng dụng, chớ không chỉ dành giật hay cướp đoạt chính quyền như bao người lầm tưởng, mà bỏ quên cái đập nước!
     Có lẽ từ ngày ông Hồ và đảng của ông cầm quyền tới nay qua thời gian gần thế kỷ, chúng ta chưa thấy bao giờ họ tiên liệu về mục tiêu nước, hay yếu tố nước… Ngược lại, họ căn cứ vào bạo lực làm cứu cánh nhằm giải quyết chuyện nước non.
     Thiếu nước thì phài vay nước. Nợ nước thì phải trả bằng nông sản. Cho nên sau khi thâu hoạch hàng vụ Hà Nội đành ngậm bồ hòn “của xứ hạ nguồn” mà phải đội lúa gạo ngô khoai sang triều cống quan thày Bắc Kinh để trả nợ nước. Đương nhiên, Hà Nội cũng chỉ được hưởng gía thành rẻ mạt trong việc Bắc Kinh trả lại bằng phân bón, hay thuốc trừ sâu “thiếu chất lượng” do biến chế với kỹ thuật thô sơ.
     Đã một thời (1995) Hà Nội khoe khoang với Liên Hiệp Quốc sản xuất nhiều lương thực, đứng hạng thứ tư về tài trợ cho nhân dân Trung Quốc. Họ vừa lòe bịp dư luận thế giới lại vừa làm cho đồng bào ta ăn đói triền miên (xem State of World 1996 của nhóm World Watch Institute Report).
     Nước là nhu cầu sinh thái (ecosystem) của thực vật, động vật và con người. Nước là tác động chung phần (collective security) trong môi trường an sinh. Nước dùng nhiều ắt cạn.
     Nông nghiệp là ngành tiêu thụ nhiều nước nhất, nước canh tác, nước trông trọt, nước chăn nuôi, nước công kỹ nghệ… và khi nước cạn, dầu cho có đóng giếng phun, và ngay đến những miền có nhiều mưa, thì cũng chỉ nước phèn. Và nhận xét chung tai ương thiếu nước hôm nay xảy ra do “cái đập,” làm thay đổi khí hậu, thời tiết cho chí mạch ngầm… và nếu đóng giếng, thì nước lấy lên cũng là độ mặn như Mễ Tây Cơ và nhiều nơi khác khổ công mà không còn nước ngọt (fresh water).
     Xung quanh hoàn cầu, phẩm chất trung thực của hệ động vật với nước cũng bị đe dọa, liên hưởng tác động trong sinh hoạt con người. Nước ô nhiễm đã làm biến thể cư dân, diệt trừ ngư sinh, bùng phát thương mại, đấu tranh nguồn nước, và làm thay đổi khí hậu tạo cho địa cầu càng ngày càng bị hâm nóng! Còn đặt vấn đề bảo vệ môi trường an sinh thì những nhà soạn định chính sách (policy decision maker) mới chỉ mang mặc khái niệm công bình, và đặt căn cứ tư tưởng trên nhân quyền để bảo vệ… chớ chưa giải quyết trọn vấn đề của con người toàn vẹn trong môi trường lành mạnh đúng thực (It brings everyone to the level of shared depend on an intact, health evironment), như theo sinh thức “đồng bào” của chúng ta.
 
4. Số Lượng Hao Cạn
 
Như trên vừa nói, chìa khóa tâm tư mở cửa lòng con người hôm nay của toàn thể nhân loại chưa có, vì còn qúa mới mẻ với nhu cầu nước, và chính sách phát nước toàn cầu. Theo tài liệu của nhóm nghiên cứu ngư sinh Hoa Kỳ (American Fisheries Society) thì lượng nước ẩm trong đất bị tiêu hao từ thời lập quốc ở những năm 1780 đến 1980, trung bình mất 24 mẫu mỗi giờ (The amounted of wetlands lost between the 1780s and 1980s averaged more than 24 hectares – 60 acres – an hour for every hour of those 200 years).
    Đó là bằng chứng cụ thể trong việc dùng nhiều thì hết cạn!
    Đang khi nước cạn thì đất canh tác bị chai (soil degradation). Đất nước bị ô nhiễm (pollution) bởi con người khai thác khoáng mỏ, lâm sản, vùng chăn nuôi gia súc, kỹ nghệ, thành thị… Tác hại nhất là đất canh nông sa thải độc tố vào nguồn nước như organochlorines, DDT, toxic chemicals… nước không tinh khiết, và các dân hạ nguồn lãnh đủ mọi độc hại. Hơn nữa, những biến chứng do nguồn nước ô nhiễm gây ra như gia súc chăn nuôi lây nhiễm H5N1, Corona Virus Vũ Hán từ chim trời, động vật, con người… Tất cả thành mối lo cho dân tộc Việt chúng ta sống ở hạ nguồn.
    Công cuộc đấu tranh cho an sinh của người Việt được ghi nhận là mục tiêu nước, nguyên tố nước. Nghiên cứu tài liệu nông ngư Việt Nam chúng ta thấy rằng các chính sách việc nước thì nhà cầm quyền Hà Nội không có khả năng giải quyết. Vì họ thiếu cái nhìn tổng hợp chính trị toàn cầu, những nguyên tắc góp phần an ninh sống chung, trật tự thế giới mới (collective security, new world order) trong một thể chế dân chủ đa đảng, đặc biệt sau thời kỳ chiến tranh lạnh (post cold war) những suy tư và khám phá mới mang tính chất đúng đắn, nguyên tắc giải quyết trên căn bản của con người toàn vẹn và đúng thực.
    Bất hạnh thay! Người Cộng sản tới nay mà họ vẫn còn say sưa với những quan niệm lạc hậu của châu Âu Westphalia: quân bình quyền lực, độc lập, tự do… chủ quyền (sovereign), dân tộc tự quyết (self-determination for people), quốc gia, dân tộc, văn hóa, tôn giáo… từ năm 1648 mệnh danh “Chistendom,” là tư tưởng cực đoan của Thời Đại Nông Nghiệp (Agricutural Age), để mà Hà Nội ngày nay đem ra so đo kèn cựa. Với quan niệm chính trị lạc hậu cũ kỹ ấy của Thời Đại Nông Nghiệp (Agricultural Age), theo Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Boutro Ghali, đó chỉ là đại họa chiến tranh, gây phiền toái cho nhân loại trên bước đường xây dựng và phát huy tinh hoa cuộc sống tốt đẹp (Xem Paths to Peace, 1992). Ông Ghali cũng tuyên bố rằng, “Cánh cửa Liên Hiệp Quốc còn rộng mở, chưa đóng,” và ông nhắn nhủ các tổ chức nên đặt yêu sách nước (claimed state) chớ đừng có “nước cha” (claimed statehood). Từ đó, chúng ta hiểu lời ông để góp phần vào công cuộc thực thi “việc nước” trong tiến trình đấu tranh cho an sinh của dân tộc Việt Nam.
    Cũng theo tài liệu Liên Hiệp Quốc, chúng ta biết rằng có hơn 4000 yêu sách lập nước, lập chính phủ, hay quan sát viên, trong đó chẳng phải chỉ có 184 nước và những tổ chức không nước (non-state organization) hay phi chính quyền (non-government organization), mà còn có nhiều những tổ chức khác.
 
IV. Kết Luận
 
Tóm lại, nước (water, state) là nhu cầu cấp thiết của đồng bào chúng ta cũng như mục tiêu chung của loài người đang sống (universal long-range objectives). Từ khởi điểm mất nước đó qua hành trình sáng tạo “dựng nước,” chúng ta có thể đặt ra yêu sách một Nước Việt Nam (The Vietnam State) trước cộng đồng nhân loại để thành hình một tổ chức chính danh – chớ không phải là thành lập một chính phủ lưu vong – dầu là phi chính phủ (non-government) nhưng tổ chức này có thể làm quan sát viên để tranh đấu cho quyền sống của dân tộc Việt Nam.
    Xin Giúp Dân Cứu Nước!

 

– Phạm Văn Bản

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Những lo ngại về tỷ lệ sinh giảm xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Quyết định của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ trong vụ Dobbs v. Jackson có thể buộc phụ nữ sinh con trái với mong muốn của họ, trong khi một bài xã luận gần đây của Anh thậm chí còn đề xuất đánh thuế đối với những người không có con.
Bản đồ thứ ba về thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh bắt nguồn từ cái thường được gọi là “Lý thuyết Hiện thực” (Realist Theory) về quan hệ quốc tế. Theo lý thuyết này, các quốc gia thực sự là chủ thể quan trọng duy nhất trong các vấn đề thế giới, mối quan hệ giữa các quốc gia là một mối quan hệ hỗn loạn (anarchy), và do đó để đảm bảo sự tồn tại và an ninh của họ, các quốc gia luôn cố gắng tối đa hóa quyền lực của mình. Nếu một quốc gia nhận thấy một quốc gia khác gia tăng quyền lực của họ và do đó trở thành một mối đe dọa tiềm tàng, nó sẽ cố gắng bảo vệ an ninh của chính mình bằng cách tăng cường quyền lực của mình và / hoặc bằng cách liên minh với các quốc gia khác. Những lợi ích và hành động của trên dưới 184 quốc gia của thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh có thể được dự đoán từ những giả định này.
Chủ nghĩa dân tộc là một phong trào hiện đại. Trong suốt lịch sử, con người gắn bó với quê nơi mình sinh ra, với truyền thống của cha mẹ mình, và với các quyền lực lãnh thổ (territorial authorities) đã được thiết lập, nhưng phải đến cuối thế kỷ 18, chủ nghĩa dân tộc mới bắt đầu trở thành một thứ tình cảm nói chung được thừa nhận là ảnh hưởng đến cuộc sống công và tư và một trong những nhân tố quyết định vĩ đại, nếu không muốn nói là vĩ đại nhất của lịch sử hiện đại.
Nước Nhật vừa xót xa tiễn biệt cựu Thủ tướng Shinzo Abe lần cuối. Thi hài ông được đưa qua đường phố Tokyo, ngang qua văn phòng Thủ Tướng và Nghị viện Nhật, nơi ông đã từng làm việc. Ngồi phía trước xe tang vẫn là phu nhân Akie Abe, như khi xe chở thi hài ông về lại Tokyo từ nơi bị ám sát hôm cuối tuần. Lặng lẽ, bình tĩnh, thỉnh thoảng phu nhân Abe lại cúi đầu đáp lễ người dân Nhật đứng đầy hai bên đường, chắp tay lạy và cúi đầu khi xe tang đi ngang. Không như lá thư hư cấu ủy mị gửi chồng của bà bằng tiếng Việt được lan truyền trên mạng, dù những người tinh ý khá dễ nhận ngay ra đó là suy diễn đầy Việt tính của một ai đó muốn lợi dụng cảm xúc đám đông. Thật ra phu nhân Abe là một người như thế nào?
COVID-19 một lần nữa hoành hành khắp Hoa Kỳ, nhưng đã không còn nhuốm màu chết chóc như thuở ban đầu, một phần là do nhiều người đã có một số mức độ miễn dịch nhờ tiêm chủng hoặc đã bị nhiễm trước đó, nhưng cũng bởi vì chúng ta hiện đã có một kho công cụ để điều trị. Các kháng thể đơn dòng (Monoclonal antibodies) là kháng thể đầu tiên xuất hiện, trước đó, chúng được coi là tuyến phòng thủ đầu tiên chống lại COVID-19. Khi đại dịch bùng phát, Cơ Quan Kiểm Soát Thực-Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cấp phép cho 4 kháng thể đơn dòng để điều trị COVID-19 và một kháng thể đơn dòng để giúp ngăn ngừa bệnh ở những người không thể tiêm phòng.
Để chấm dứt những tranh cãi pháp lý xoay quanh việc phá thai sẽ đòi hỏi phải đạt được sự đồng thuận về mặt đạo đức. Nếu có thể trình bày rõ ràng quan điểm đạo đức của chúng ta và thấu hiểu quan điểm của người khác, tất cả các bên sẽ tiến đến gần hơn với một thỏa thuận có nguyên tắc. Bài tổng hợp này dựa theo các chi tiết phỏng dịch từ bài viết đăng trên The Conversation của Nancy S. Jecker, Giáo sư Đạo đức Sinh học và Nhân văn, School of Medicine, University of Washington, đã nghiên cứu các vấn đề đạo đức trong y học và chính sách y tế, bao gồm cả việc phá thai; và các vấn đề liên quan đến quyết định lật ngược án lệ Roe v Wade cuối tuần qua của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ.
Roe kiện Wade (Roe v. Wade) là một vụ án dẫn đến một quyết định quan trọng được đưa ra bởi Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ vào năm 1973, Roe v. Wade làm cho việc phá thai được hợp pháp hóa ở Hoa Kỳ. Trong vụ kiện này, một phụ nữ tên là Norma McCorvey (lấy bút danh là Jane Roe) muốn phá thai ở tiểu bang Texas. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, luật của bang Texas không cho phép phá thai ngoại trừ việc cứu sống người mẹ. Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã ra phán quyết có lợi cho McCorvey và cho rằng luật của Texas không phù hợp với hiến pháp. Tòa án tuyên bố rằng việc quyết định phá thai của một người phụ nữ trong ba tháng đầu của thai kỳ nên được quyết định theo ý kiến cá nhân và bác sĩ. Theo Tối cao Pháp viện, mỗi người dân có “quyền về quyền riêng tư” cơ bản và quyền đó bảo vệ sự lựa chọn phá thai của một người.
Chiến tranh Nga xâm chiếm Ukraine được nhân danh một trong số lý do: Cuộc xử lý nội bộ, nghĩa là, chiếm lại vùng đất thuộc địa. Lập luận này khiến cho thế giới tự do dẫn đầu bởi Hoa Kỳ và Âu Châu đứng ra ngoài vòng chiến, dù hô hào chống đối và giúp đỡ vũ khí, nhưng thái độ này mặc nhiên chấp nhận sự xâm lăng vô lý đối với tự do của một dân tộc và quyền thống nhất lãnh thổ của một quốc gia. Nguyên nhân ngấm ngầm rõ rệt là nỗi sợ hãi dù gọi là cân nhắc: hành động trực tiếp của thế giới tự do tham gia vào trận chiến giúp Ukraine chống lại Nga sẽ dẫn đến chiến tranh nguyên tử, khi xảy ra, ngày đó là ngày tận thế. Những lý do còn lại chỉ là những cách diễn đạt bên ngoài, không chỉ là nghệ thuật chính trị, mà còn là tác động sinh tồn. Quên rằng: Ngày tận thế không chỉ là nỗi sợ tuyệt đối của thế giới tự do, mà thế giới cộng sản và độc tài cũng tuyệt đối kinh hãi không kém. Nếu hai bên cùng sợ tận xương tủy, vấn đề còn lại là ván bài xì tố?
Khi các tiểu bang đã hợp pháp hóa việc sử dụng cần sa cho mục đích y khoa và giảm căng thẳng, và luật liên bang bây giờ cũng cho phép bán các sản phẩm chiết xuất từ cây gai dầu, thì cần sa và các hậu quả liên hệ được chú ý và nghiên cứu kỹ càng hơn. Sau đây là một số phân tích từ các nhà nghiên cứu, những người đã theo dõi sự phát triển của cần sa gần đây do trang The Conversation tổng hợp.
Trong hai ngày cuối tuần vừa qua, Học Viện Nghiên Cứu Chiến Tranh ISW đã liên tiếp đưa ra các bản đánh giá về cuộc chiến Ukraine và Nga hiện nay. ISW là một tổ chức think-tank phi đảng phái và phi lợi nhuận uy tín có trụ sở tại Washington, DC, quy tụ nhiều cựu tướng lãnh, viên chức cao cấp chính phủ và các học giả để cung cấp các nghiên cứu giá trị về quân sự và đối ngoại quốc tế qua các nghiên cứu, số liệu và phân tích đáng tin cậy. Các nghiên cứu của ISW cũng giúp cho chính phủ Hoa Kỳ có thêm nguồn cố vấn quan trọng trong các chiến dịch quân sự và đối phó với các nguy cơ liên quan đến an ninh quốc gia.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.