Hôm nay,  

Cha Già Dân Tộc

29/10/200100:00:00(Xem: 5449)
Cha già dân tộc ở đây là Adenauer. Dân tộc, dân Đức sau Lò Thiêu. Một nước Đức mới. Và đó là tựa đề cuốn sách của Charles Williams, "Adenauer: The Father of the New Germany" (nhà xb Wiley, 584 trang $35.00). Dưới đây là tóm tắt bài điểm cuốn sách trên, của Gordon A. Craig, trên tờ NYRB số đề ngày 1 tháng 11, 2001.

Mùa thu năm 1944, Konrad Adenauer bị Gestapo bắt giữ vì bị tình nghi dính vào vụ gài bom tính làm thịt Hitler. Ông bị đưa đến nhà tù ở Brauweiler. Sau khi bị lột hết quần áo, những vật dụng dính vào người như thắt lưng, dây giầy, dao nhíp, ông bị tống vào một phòng giam chật hẹp không có hệ thống sưởi ấm; viên cai tù, chắc là cám cảnh cho thân phận ông, và cũng sợ rắc rối, đã ân cần căn dặn: Bẩy mươi tuổi đầu, sắp xuống lỗ rồi, đừng bầy đặt tự tử, chỉ làm khổ thằng này thôi.

Ở vào hoàn cảnh như trên, một câu khuyên như vậy là hợp tình hợp cảnh. Có điều, cả người khuyên lẫn người được khuyên, đều không ngờ, quãng đời còn lại của người tù già được "ông Trời" trao cho một trách nhiệm lớn lao: hai mươi năm trời tiếp theo sau, Adenauer, khi được giao chức vụ chancelor (thủ tướng), đã đưa đất nước vượt qua nỗi đau, và cũng là nỗi nhục, như là di sản của chế độ Nazi, và cùng với nó, Lò Thiêu, biến đổi nước Đức, từ kẻ thù bại trận thành đồng minh đáng kính trọng.

Theo Craig, nhan đề cuốn tiểu sử về ông, Người cha sáng lập nước Đức mới, thật xứng đáng đối với Adenauer. Williams, tác giả cuốn tiểu sử nói trên, viết, Adenauer sử sự trước đám đông như một nhà độc tài, nhưng thêm vô, trách nhiệm mà ông ôm lấy, trên toàn thể, đã được hoàn tất.

Konrad Adenauer sinh tại Cologne vào tháng Giêng năm 1876, là con trai thứ ba, cha phục vụ 15 năm trong quân đội Phổ, được huy chương dũng cảm tại Koniggrat, rồi cố gắng vượt lên, trở thành viên chức cao cấp tòa án trong chính quyền Phổ. Con cái trưởng thành qua một giáo dục rất nghiêm và rất ngoan đạo (Catô giáo), đây là nguồn gốc sự tự tin của Konrad ngay từ những năm mới lớn. Học luật tại Freiburg, ra trường và kiếm được việc làm (junior prosecutor) tại một văn phòng nhà nước tại Cologne, vào năm 1902.

Cùng năm đó, ông gặp Emma Weyer, thuộc một gia đình giầu có, và hai năm sau, hai người thành hôn. Một cuộc hôn nhân hạnh phúc, nhưng người chồng ngày càng cảm thấy không được thoải mái, với vai trò luật sư lương lậu có phần khiêm tốn của mình. Nhờ ảnh hưởng gia đình bên vợ, một phần, và nhờ tài tranh cãi nơi pháp đình, ông được đắc cử vào chức vụ hội đồng thành phố, mặc dù chẳng có một chút kinh nghiệm chính trị. Ông bỏ hết nghị lực vào công việc, và vào năm 1909, khi chức bí thư thứ nhất của thị trưởng trống chỗ, đảng Center Party đẩy ông ra nắm lấy.

Thời gian này, nước Đức đang trên đà lao vào cuộc chiến. Khi phải nhìn lại, ông nói, "… cuộc chiến 1914-18… là 'thành quả' của sự ngu xuẩn, của tất cả mọi người".

Williams rõ ràng cho rằng, Adenauer đã không hiểu Hitler, và luôn luôn coi chủ nghĩa cộng sản là một đe dọa thực sự cho một nước Đức như là ông tin tưởng. Đúng ra là vào tháng Chạp năm 1932, những ngày cuối cùng của chế độ Cộng hòa Weimar, ông viết thư cho người cầm đầu Center Party, cho rằng, giải pháp khẩn yếu, đó là coi việc gia nhập của Quốc xã vào chính quyền Reich [được] giải quyết theo đường hướng tích cực (positive sense). Nhưng cho dù nguyên nhân nào chăng nữa, tình huống ngày một vuột khỏi tầm nhìn của ông. Một khi Hitler lên cầm quyền, bản chất dã man của những chính sách của ông ta tự nó lộ ra, và Adenauer thấy rằng, để tránh nguy hiểm, càng thu mình lại chừng nào tốt chừng đó. Ông cũng tránh không liên lạc với lực lượng kháng chiến. Khi Carl Goerdeler, cựu thị trưởng Leipzig, và là nhân vật then chốt trong âm mưu chống lại Hitler muốn nhận ông vào nhóm, ông đã từ chối gặp. Tuy nhiên, chắc chắn tên của ông đã nằm trong một danh sách đen, của một người nào đó, và ông bị Gestapo bắt hai lần, một vào năm 1935, và lần sau vào năm 1944, khi xẩy ra vụ gài bom.

Rõ ràng là, trong khi thu mình lại, ông đã mơ tưởng tương lai của một nước Đức sau Hitler. Tuyệt vời, là đoạn Williams mô tả Adenauer miệt mài với hai tác phẩm "Rerum Novarum" và "Quaragesimo Anno", trong đó xác định đường hướng, thái độ của Nhà Thờ La Mã khi phải ứng xử với những vấn đề hàng ngày mang tính xã hội và chính trị. Willimas viết, Adenauer đã tìm kiếm một trụ cột mang tính lý thuyết và quyền thế, làm cơ sở cho những chính sách chính trị mang tính thực hành, trong tương lai. Thật rõ rệt, trong những năm chiến tranh do Hitler gây nên, ông đã suy tư hoài về một tương lai nước Đức, tương lai đó sẽ chẳng mắc mớ gì tới những điều ghê rợn đang trải ra trước mắt ông, và ông là người đầu tiên nhận ra rằng nước Đức tương lai phải được cai trị bởi nhiều nguyên lý (principles), và chính sách khác nhau, không như trong quá khứ.

Ngay khi lực lượng thắng trận cho phép đảng phái chính trị hoạt động ở Tây Đức, mặc dù tuổi đã cao, Adenauer lao vào chính trường. Tuy thoạt đầu ngần ngại, lực lượng đồng minh đã chọn ông, thay vì người cầm đầu đảng Xã hội Dân chủ (SPD: Social Democratic Party), Kurt Schumacher, một người can đảm nhưng giáo điều. Đối với Adenauer, quan trọng là tạo được liên minh giữa Hiệp hội Kytô Dân chủ, (CDU: Christian Democratic Union), tức Đảng của ông, với Hiệp hội Kytô Xã hội (Christian Social Union) bảo thủ hơn. Liên minh đã thắng cuộc bầu cử hạ viện năm 1949, và khả năng trở thành thủ tướng đối với ông đã bắt đầu ló dạng.

Những năm đầu trong chức vụ thủ tướng, ông giao kinh tế cho đồng sự Ludwig Erhard, với ông này, kế hoạch thị trường tự do (free market) đã có những thành công đầu tiên; còn Adenauer chú tâm vào ngoại giao. Ngay từ khởi đầu, nó đã mang tính cách mạng, bởi vì ông tin tưởng, cựu lục địa Âu Châu với những quốc gia của nó đã hết còn đáp ứng những nhu cầu và hy vọng của thế hệ hậu chiến, và chẳng thể còn những quyền lực lớn lao ở Âu Châu, theo nghĩa cũ của từ này. Mục tiêu của ông là một Tây Âu hợp nhất (integration), và trong lần viếng thăm Hoa Kỳ vào năm 1953, ông nói rõ ra điều này trong bữa ăn trưa tại Câu lạc bộ báo chí quốc gia: Mỗi thời đại có riêng những nhiệm vụ của nó. Tại Âu Châu, ý kiến của bất cứ một cá nhân hiểu biết nào, đều chỉ ra một điều, một ngày nào đó, sẽ có một Hiệp Chúng Quốc của Âu Châu. Không ai hiểu rõ điều này hơn là những người trẻ tuổi của lục địa của chúng tôi."

Hy vọng một Âu Châu hợp nhất đã gặp một cú dội, vào năm 1954, khi Quốc hội Pháp từ chối chấp thuận Cộng đồng Phòng thủ Âu Châu (The European Defence Community). Trong một cuộc nói chuyện bị ký giả báo Der Spiegel nghe lén, ông tỏ ra lo sợ, chuyện nước Pháp rẫy ra sẽ đưa tới hậu quả, là sự sống lại chủ nghĩa quốc gia và trọng binh tại Đức. Nhưng Anh và Mỹ đã thuyết phục Pháp bằng lòng cho Đức gia nhập Nato, như là một thành viên với đầy đủ quyền hạn của nó. Đây là một thắng lợi ngoại giao quá sức lớn lao. Một tờ báo ở Thụy Sĩ đã cho rằng, không thể tưởng tượng được, về những thành quả như vậy, nếu nhìn lại một nước Đức vào năm 1949, và cũng không thể ngờ được chuyện, Adenauer đã lèo lái đất nước trở thành một quốc gia theo đồng minh. Nhưng rất nhiều người Đức lại tỏ ra lo ngại, điều này càng làm cho chuyện thống nhất nước Đức tỏ ra xa vời nếu không muốn nói là không tưởng.

Trong một cuộc thảo luận nhằm phê chuẩn hiệp ước Nato, Audenauer đã thuyết phục những người chỉ trích ông, rằng một chính sách về sức mạnh dựa trên tái vũ trang và liên kết Tây Phương, sau cùng sẽ khiến cho Liên Xô nhận ra sự thực, là việc thống nhất nước Đức là không thể tránh được. Viễn mơ đấy, nhưng không phải không có cơ sở. Khi tới Moscow vào năm 1955, nhận thấy nước chủ nhà tỏ ra khinh khỉnh khi ông cố gắng nêu ra vấn đề. Thực sự, nhằm thuyết phục Liên Xô bảo đảm việc thả mười ngàn tù nhân chiến tranh vẫn bị cầm giữ tại đây, Adenauer đã đồng ý ký một thoả ước nhằm tái lập liên lạc ngoại giao giữa Liên Bang Đức với Liên Xô, một thoả ước làm đồng minh "bực mình", bởi vì nó có thể đưa tới hệ quả là thừa nhận Cộng Hoà Dân Chủ Đức.

Lo sợ của đồng minh trở nên hiển hiện khi xẩy ra cuộc khủng hoảng kênh đào Suez, và cuộc nổi dậy tại Hung vào năm 1956, cho thấy, những thế lực Tây Phương tỏ ra bất lực, không có hiệu quả. Liên Xô nắm lấy cơ hội này, và vào tháng Mười Một năm 1958 Nikita Khruchchev gửi một tối hậu thư cho London, Paris và Washington, cho biết, chính sách bốn quyền lực chia nhau kiềm soát Berlin đã hết thời và một chính sách mới phải đưa ra trong vòng 6 tháng, nếu không Liên Xô sẽ xé lẻ, ký hiệp ước với Cộng Hoà Dân Chủ Đức. Tối hậu thư gây khủng hoảng kéo dài tới 1962, và đây là thời kỳ cho thấy Adenauer ở vào những phút vinh nhục nhất trong cuộc đời chính trị của ông. Ông tỏ ra không tin cậy tất cả những đồng minh, và thường xuyên, sự mất tin tưởng này hoàn toàn không dựa trên những chứng liệu có cơ sở. Ông tỏ ra chắc chắn, ngoại trưởng Dulles của Mỹ, trong những ngày cuối cùng của mình, đã muốn một cuộc chiến tranh nguyên tử. Rằng thủ tướng Anh, Macmillan, là một "thằng ngu đần", chỉ khoái được Liên Xô nịnh bợ. Rằng tổng thống Kennedy, mà ông gọi là "điểm gặp gỡ giữa một tên hải quân bé con và một gã hướng đạo sinh Catô La mã", đã giấu không thông báo cho ông biết những cuộc trao đổi với Liên Xô. Cuối cùng chỉ còn trông cậy được vào tướng de Gaulle, vào tháng giêng năm 1963 ông ký một hiệp ước với nhà lãnh đạo nước Pháp, mà ông coi là người bảo đảm cho tương lai của Âu Châu.

Sự kiện không mất Berlin vào thời kỳ này phụ thuộc vào những yếu tố phức tạp. Một trong số đó, là De Gaulle từ chối ký kết hoặc thoả thuận, dưới sức ép của tối hậu thư. Nhờ vậy mà đồng minh đã không đi đến quyết định đành nhả Berlin cho phe đỏ. Nhưng phần nhiều là do những hành động của Khruschev: bỏ hội nghị thượng đỉnh vào naam 1960, một cuộc họp chắc là sẽ đem đến cho ông hầu hết những gì mà ông đòi hỏi về Berlin, trong đó bao gồm việc kiểm soát Berlin sẽ thuộc về Đông Đức; quyết định chiếm một nửa bằng cách dựng Bức Tường vào tháng Tám 1961, và lầm lẫn tiếp theo sau, khi từ bỏ chiến thuật nhắm vào Đức và lao vào cuộc phiêu lưu đặt hoả tiễn tại Cuba. Tuy nhiên, vai trò của Adenauer không phải không quan trọng, nếu nói về những yếu tố quyết định. Ông tiếp tục góp phần vào việc kiểm soát Tây Bá Linh, do khăng khăng chống lại những kế hoạch nhằm thoả hiệp với Liên Xô, vẽ chi li những giải pháp của riêng ông, tuy thật khó thực hiện nhưng nhằm kéo dài thời gian, luôn cả sự đe dọa, nếu tình hình trở nên quá sức tồi tệ, ông sẽ xé lẻ nói chuyện thẳng với Khruschev, cho đồng minh ra rìa… đã khiến mấy ông bạn phát hoảng!

Trong thời gian đó, ông tiếp tục làm mưa làm gió trên chính trường trong nước. Cuộc bầu cử toàn quốc vào năm 1957 còn thành công lớo lao hơn so với năm 1953. Nhờ kinh tế phát triển, tăng 7% mỗi năm, nhờ kế hoạch sửa đổi hưu bổng cho người già, trong 87% người đi bầu, liên minh của ông (CDU/CSU) chiếm 50.2%. Chưa từng có một độc đảng chiếm được số phiếu cao như vậy, trong lịch sử bầu cử tại Đức. Và tác giả cuốn tiểu sử về ông, Williams, viết: Vào tuổi 81, Adenauer là vị hoàng đế không vương miện của nước Đức. Nhưng đây là chiến thắng cuối cùng của ông.

Sự kiện, ông coi như chẳng có gì xẩy ra, khi Bức Tường "ô nhục" được dựng lên, đã gây bất mãn trong dân chúng, trong khi đối thủ của ông là Willy Brandt đã đích thân tới Berlin to tiếng phản đối. Những tấn công mang tính cá nhân của ông vào Brandt cũng gây ra những hậu quả đáng tiếc. Và trong cuộc bầu cử vào năm 1961, ngay sau khi bức tường được dựng lên, số phiếu dồn cho đảng của ông xuống dốc thê thảm, mất quyền kiểm soát đa số. Những sự kiện tiếp theo sau đó càng làm ông mất uy tín, và sau cùng đảng đã chọn người thay ông, là Ludwig Erhard.

Jennifer Tran

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 2 tháng 8 năm 2022, các cử tri ở Kansas đã chọn chống lại việc lật ngược quyền phá thai theo hiến pháp của tiểu bang. Vài ngày sau, các nhà lập pháp Indiana đã quyết định cấm gần như tất cả các trường hợp phá thai. Cả hai đều là các bang theo xu hướng bảo thủ, và đều ủng hộ nỗ lực tái đắc cử của cựu Tổng thống Donald Trump với tỷ suất gần giống nhau vào năm 2020: 56.1% - 41.5% ở Kansas và 57% - 41% ở Indiana. Vậy điều gì giải thích cho các kết quả khác nhau? Câu trả lời là ở Kansas, cử tri trực tiếp quyết định kết quả. Ở Indiana, thì các nhà lập pháp là người ra quyết định. Sự khác biệt này có ý nghĩa quan trọng, bởi vì đối với các vấn đề gây tranh cãi như phá thai, cũng như trong các vấn đề nổi bật khác, các cơ quan lập pháp tiểu bang không phải lúc nào cũng đại diện cho mong muốn của công chúng, người dân trong tiểu bang của họ.
Làm cách nào để tôi được xóa khoản nợ sinh viên? Ai đủ điều kiện để được tha khoản nợ sinh viên? Liệu các khoản nợ tư nhân có được xóa? Các khoản nợ của sinh viên đã tốt nghiệp có đủ điều kiện để được tha nợ không? Các khoản vay của Parent Plus có đủ điều kiện không? Sinh viên còn đang đi học có đủ điều kiện được tha nợ không? Các khoản vay FFEL có đủ điều kiện không? Chương trình có giới hạn những gì người vay đang còn đi học phải trả không? Tôi có thể vay nợ liền bây giờ và được hưởng theo chính sách mới không? Chính phủ sẽ xác định thu nhập của tôi như thế nào để đủ điều kiện được tha nợ? Tôi nợ hơn 10,000 đô la. Khi nào thì tôi bắt đầu phải thanh toán trở lại? Tôi có phải trả thuế cho khoản nợ sinh viên đã được tha không? Điều này có làm cho lạm phát tồi tệ hơn? Chi phí xóa nợ cho sinh viên là bao nhiêu? Liệu điều này có mang lại lợi ích cho những người Mỹ giàu có không?
Tầm quan trọng của diaspora hay cộng đồng người gốc Việt sống ngoài Việt Nam càng ngày càng gia tăng. Để có một cái nhìn tổng quát, có tính cách học thuật và khách quan hơn về tình hình chung của diaspora Việt cũng như các diaspora trên thế giới, tôi xin giới thiệu và dịch bài viết năm 2005 sau đây của Steven Vertovec, một giáo sư đại học Đức chuyên về Xã hội học và Dân tộc học. Các điểm liên quan tới Việt Nam sẽ được người dịch ghi chú, bàn luận thêm trong phần chú thích ở cuối bài. (HVH)
Những lo ngại về tỷ lệ sinh giảm xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Quyết định của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ trong vụ Dobbs v. Jackson có thể buộc phụ nữ sinh con trái với mong muốn của họ, trong khi một bài xã luận gần đây của Anh thậm chí còn đề xuất đánh thuế đối với những người không có con.
Bản đồ thứ ba về thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh bắt nguồn từ cái thường được gọi là “Lý thuyết Hiện thực” (Realist Theory) về quan hệ quốc tế. Theo lý thuyết này, các quốc gia thực sự là chủ thể quan trọng duy nhất trong các vấn đề thế giới, mối quan hệ giữa các quốc gia là một mối quan hệ hỗn loạn (anarchy), và do đó để đảm bảo sự tồn tại và an ninh của họ, các quốc gia luôn cố gắng tối đa hóa quyền lực của mình. Nếu một quốc gia nhận thấy một quốc gia khác gia tăng quyền lực của họ và do đó trở thành một mối đe dọa tiềm tàng, nó sẽ cố gắng bảo vệ an ninh của chính mình bằng cách tăng cường quyền lực của mình và / hoặc bằng cách liên minh với các quốc gia khác. Những lợi ích và hành động của trên dưới 184 quốc gia của thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh có thể được dự đoán từ những giả định này.
Chủ nghĩa dân tộc là một phong trào hiện đại. Trong suốt lịch sử, con người gắn bó với quê nơi mình sinh ra, với truyền thống của cha mẹ mình, và với các quyền lực lãnh thổ (territorial authorities) đã được thiết lập, nhưng phải đến cuối thế kỷ 18, chủ nghĩa dân tộc mới bắt đầu trở thành một thứ tình cảm nói chung được thừa nhận là ảnh hưởng đến cuộc sống công và tư và một trong những nhân tố quyết định vĩ đại, nếu không muốn nói là vĩ đại nhất của lịch sử hiện đại.
Nước Nhật vừa xót xa tiễn biệt cựu Thủ tướng Shinzo Abe lần cuối. Thi hài ông được đưa qua đường phố Tokyo, ngang qua văn phòng Thủ Tướng và Nghị viện Nhật, nơi ông đã từng làm việc. Ngồi phía trước xe tang vẫn là phu nhân Akie Abe, như khi xe chở thi hài ông về lại Tokyo từ nơi bị ám sát hôm cuối tuần. Lặng lẽ, bình tĩnh, thỉnh thoảng phu nhân Abe lại cúi đầu đáp lễ người dân Nhật đứng đầy hai bên đường, chắp tay lạy và cúi đầu khi xe tang đi ngang. Không như lá thư hư cấu ủy mị gửi chồng của bà bằng tiếng Việt được lan truyền trên mạng, dù những người tinh ý khá dễ nhận ngay ra đó là suy diễn đầy Việt tính của một ai đó muốn lợi dụng cảm xúc đám đông. Thật ra phu nhân Abe là một người như thế nào?
COVID-19 một lần nữa hoành hành khắp Hoa Kỳ, nhưng đã không còn nhuốm màu chết chóc như thuở ban đầu, một phần là do nhiều người đã có một số mức độ miễn dịch nhờ tiêm chủng hoặc đã bị nhiễm trước đó, nhưng cũng bởi vì chúng ta hiện đã có một kho công cụ để điều trị. Các kháng thể đơn dòng (Monoclonal antibodies) là kháng thể đầu tiên xuất hiện, trước đó, chúng được coi là tuyến phòng thủ đầu tiên chống lại COVID-19. Khi đại dịch bùng phát, Cơ Quan Kiểm Soát Thực-Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cấp phép cho 4 kháng thể đơn dòng để điều trị COVID-19 và một kháng thể đơn dòng để giúp ngăn ngừa bệnh ở những người không thể tiêm phòng.
Để chấm dứt những tranh cãi pháp lý xoay quanh việc phá thai sẽ đòi hỏi phải đạt được sự đồng thuận về mặt đạo đức. Nếu có thể trình bày rõ ràng quan điểm đạo đức của chúng ta và thấu hiểu quan điểm của người khác, tất cả các bên sẽ tiến đến gần hơn với một thỏa thuận có nguyên tắc. Bài tổng hợp này dựa theo các chi tiết phỏng dịch từ bài viết đăng trên The Conversation của Nancy S. Jecker, Giáo sư Đạo đức Sinh học và Nhân văn, School of Medicine, University of Washington, đã nghiên cứu các vấn đề đạo đức trong y học và chính sách y tế, bao gồm cả việc phá thai; và các vấn đề liên quan đến quyết định lật ngược án lệ Roe v Wade cuối tuần qua của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ.
Roe kiện Wade (Roe v. Wade) là một vụ án dẫn đến một quyết định quan trọng được đưa ra bởi Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ vào năm 1973, Roe v. Wade làm cho việc phá thai được hợp pháp hóa ở Hoa Kỳ. Trong vụ kiện này, một phụ nữ tên là Norma McCorvey (lấy bút danh là Jane Roe) muốn phá thai ở tiểu bang Texas. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, luật của bang Texas không cho phép phá thai ngoại trừ việc cứu sống người mẹ. Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ đã ra phán quyết có lợi cho McCorvey và cho rằng luật của Texas không phù hợp với hiến pháp. Tòa án tuyên bố rằng việc quyết định phá thai của một người phụ nữ trong ba tháng đầu của thai kỳ nên được quyết định theo ý kiến cá nhân và bác sĩ. Theo Tối cao Pháp viện, mỗi người dân có “quyền về quyền riêng tư” cơ bản và quyền đó bảo vệ sự lựa chọn phá thai của một người.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.