Hôm nay,  

Dám Tin

29/01/200300:00:00(Xem: 5422)
Tôi ăn Giáng Sinh năm 1988 ở Hồng Kông, do lời rủ rê của một anh bạn lúc ấy đang làm việc cho Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc. Cách đó không lâu, anh ấy nằng nặc đòi tôi phải sang Hồng Kông để chứng kiến tình cảnh đồng bào rất thê lương trong các trại cấm. Theo lời anh ta, điều kiện sinh sống của họ tệ lậu hơn các trại cải tạo ở Việt Nam. Vì anh bạn này đã ở trại cại tạo bẩy năm nên tôi hiểu rằng tình hình của đồng bào thuyền nhân đã thực sư nguy cập.
Tôi quyết định đánh một chuyến đi Hồng Kông cho biết tự sự.
Toán người Việt và một người Mỹ đang làm việc ở các trại cấm đón tôi ở phi trường Kaitak và kéo tôi về ở chung với họ tại Lantau, một hòn đảo lớn rất thơ mộng với cảnh núi rừng hùng vĩ và thường được các nhà sản xuất phim bộ võ hiệp Hồng Kông dùng làm phim trường. Mấy người bạn cho tôi ở nhà vài ngày định thần trong khi họ sắp xếp đưa tôi lẻn vào thăm đồng bào trong một số trại cấm.
Các trại mà tôi đến thăm là các trại giam kiên cố cho tù nhân trước đây, nay dùng cho thuyền nhân. Đồng bào sống chen chúc trong các nhà vòm, mỗi gia đình được một ô nhỏ trên dãy giường ba tầng trông như dãy chuồng gà kỹ nghệ. Nhiều thuyền nhân lúc ấy đã qua kỳ "thanh lọc" và đã bị khước từ quyền tị nạn. Hồng Kông và Cao Uỷ Tị Nạn nhất định bắt họ phải hồi hương.
Ở trại nào đồng bào cũng nhao nhao cầu cứu. Khi cả thế giới quay lưng đi thì họ chỉ còn trông chờ vào cộng đồng người Việt hải ngoại như chiếc phao cuối cùng. Tôi bỗng nhiên và một cách bất đắc dĩ trở thành biểu tượng, trong mắt của thuyền nhân, cho cộng đồng người Việt ở hải ngoại mà họ chỉ có ấn tượng mơ hồ. Trước nỗi tuyệt vọng của đồng bào tôi chỉ biết hứa là khi trở về Hoa Kỳ thì sẽ tri hô báo động về tình cảnh của người vượt biển sau ngày đóng cửa trại.
Vài tuần sau khi tôi trở về Hoa Kỳ, anh Daniel Wolf, một luật sư trẻ người Mỹ, gọi điện thoại cho tôi. Anh ấy cũng vừa mới từ Hồng Kông về. Thoạt tiên chỉ là chuyến du ngoạn với cô bạn gái. Rồi tình cờ anh biết được về các trại cấm và đã ở lại thêm một tháng, lẻn vào các trại để giúp lập hồ sơ kháng cáo cho những thuyền nhân đã mất quyền tị nạn một cách oan ức. Trong thời gian này anh ta đã hết nhẵn tiền nên phải ăn nhờ ở đậu số người Việt làm việc cho Cao Uỷ Tị Nạn. Qua cuộc điện đàm anh ta tự giới thiệu và đề nghị UBCNVB thành lập và gởi phái đoàn luật sư đến các trại để bảo vệ và cứu gỡ cho thuyền nhân Việt Nam đang bị gài vào cái bẫy thanh lọc.
Thấy không có cách nào khác, tôi tán đồng ý kiến này. Chương trình Trợ Giúp Pháp Lý Cho Thuyền Nhân Việt Nam (Legal Assistance for Vietnamese Asylum Seekers hay LAVAS) ra đời đầu năm 1989. Chúng tôi vận động được nhiều người Mỹ tham gia LAVAS, như Ông Shep Lowman, cô Elizabeth Leresche, LS Steve Corliss, LS Dinah Pokempner...
Một trong những người Việt đầu tiên tôi tiếp xúc để kêu gọi ủng hộ là anh bạn trước kia rủ rê tôi sang Hồng Kông. Sau khi họp bàn với một số thân hữu quan tâm đến vấn đề thuyền nhân, anh ấy chuyển lời lại, chỉ một câu ngắn ngủi: "Chuyện không tưởng." Rồi anh ấy giải thích: Tìm đâu ra luật sư" Dù có luật sư thì lấy đâu ra tiền để trả cho họ" Dù có tiền và có luật sư thì đời nào các quốc gia tạm dung cho LAVAS đặt chân vào trại cấm" Đến đâu trong cộng đồng Việt tôi cũng gặp những phản ứng tương tự.

Trước thái độ hồ nghi và chủ bại ấy, tôi chỉ có một vũ khí độc nhất: niềm tin. Tôi tin vào lòng tốt của con người và tin vào khả năng của cộng đồng người Việt để giải cứu cho đồng bào thuyền nhân. Tôi lê la đi khắp nơi ở Hoa Kỳ, ở Âu châu, ở Canada và ở Úc và sản xuất ồ ạt các bài viết trên báo chí Việt ngữ, với một thông điệp giản dị: đừng phụ niềm tin của đồng bào; hãy tin vào sức mình; hãy tin vào nhau.
Một hôm tôi nhận được lá thư của một luật sư trẻ mới ra trường, anh Nguyễn Quốc Lân, ngỏ ý muốn tiếp tay. Anh Lân nhận trách nhiệm vận động các bạn luật sư trẻ người Việt. Cũng khoảng thời gian này tôi sang Canada và được các anh Lê Duy Cấn và Lê Văn Mão, hai người hoạt động kỳ cựu cho thuyền nhân, ủng hộ. Cả hai anh, thuộc hai hội khác nhau, đồng ý góp phần vào cho quỹ đầu tiên của LAVAS.
Năm 1991, với ngân sách vỏn vẹn 5 ngàn Mỹ kim, ban tham mưu của LAVAS quyết định không thể chờ đợi thêm được nữa vì mỗi ngày càng đông thuyền nhân ở các quốc gia tạm dung bị tước đoạt quyền tị nạn. Hơn nữa chúng tôi hiểu rằng nếu không có thành quả cụ thể để chứng minh thì rất khó mà thuyết phục được những người khác. Chúng tôi quyết định gởi gấp phái đoàn luật sư sang Phi Luật Tân, một quốc gia chịu ảnh hưởng nhiều của Hoa Kỳ, để rồi từ đó mở đầu cầu sang Hồng Kông và các quốc gia khác. Với sự hỗ trợ tận tình và bất ngờ của vị đại sứ Hoa Kỳ ở Phi Luật Tân (hiện nay làm đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc), phái đoàn LAVAS đã mở được cơ sở thường trực ngay sát trại Palawan, mặc dù có sự phản đối và ngăn chặn mãnh liệt của Cao Uỷ Tị Nạn Liên Hiệp Quốc.
Khi các bản phúc trình của phái đoàn luật sư LAVAS gởi từ các trại báo cáo về các hồ sơ thành công, thì cộng đồng người Việt ở các nơi bắt đầu phấn khởi và đóng góp cho quỹLAVAS. Phong trào đi bộ gây quỹ được dấy lên ở nhiều nơi. Nhiều nhóm sinh viên, học sinh tổ chức gây quỹ nhỏ gởi về cho LAVAS. Có người nhân ngày sinh nhật của con đã kêu gọi bạn bè thay vì mua quà thì hãy gởi tiền cho LAVAS. Sau 5 năm hoạt động LAVAS đã gởi được 12 luật sư và một số tương đương trợ tá luật sư đến các trại cấm. Họ lập được 500 hồ sơ xin tị nạn, với tỉ lệ thành công trên 35% (so với tỉ lệ dưới 1% đối với các hồ sơ kháng cáo không được sự can thiệp của LAVAS). Điều quan trọng hơn nữa là sự hiện diện của LAVAS đã thúc đẩy các quốc gia tạm dung cải thiện phần nào tiến trình thanh lọc, nâng cao lên tỉ lệ thuyền nhân được xét là tị nạn nói chung dù không có sự can thiệp của LAVAS.
Nhưng chính những hồ sơ không thành công mới có tác dụng đặc biệt. UBCNVB đã dùng những hồ sơ này để chứng minh sự bất công trầm trọng trong thanh lọc và vận động cho một giải pháp công bằng. Với sự can thiệp vào phút chót của Quốc Hội Hoa Kỳ, chương trình Cơ Hội Định Cư Cho Người Việt Hồi Hương (Resettlement Opportunity for Vietnamese Returnees hay ROVR) ra đời. Kể từ năm 1997 gần 20 ngàn đồng bào đã định cư vào Hoa Kỳ theo chương trình này sau khi bị hồi hương.
Điều đáng tiếc là LAVAS đến các trại quá trễ cho nhiều đồng bào-năm 1991 ở Phi Luật Tân và sau đó mới từ từ len lỏi đến các quốc gia khác. Lúc ấy hàng chục ngàn thuyền nhân đã bị mất quyền tị nạn và một số đã bị hồi hương. Phải chi cộng đồng của chúng ta ngay từ năm 1988 hay 1989 đã có được niềm tin sớm hơn nơi chính mình và quyết tâm tranh đấu trực diện về pháp lý và chính sách thì có lẽ nhiều chục ngàn thuyền nhân nữa đã được cứu thoát.
Nguyễn Đình Thắng
(Trích báo Mạch Sống Tháng 1, 2003)
Báo Mạch Sống là phương tiện thông tin của UBCNVB với số lượng phát hành 45 ngàn số mỗi tháng. Bản điện tử của báo Mạch Sống đặt tại http://www.bpsos.org/MS/machsong.htm.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 19 tháng 11: - 1863: Diễn văn Gettysburg huyền thoại của Abraham Lincoln: “Lincoln đã làm cuộc Cách mạng, đem lại cho nhân dân một quá khứ mới để sống từ đó, và quá khứ này sẽ thay đổi tương lai một cách vĩnh cửu” như nhà sử học Garry Wills viết. Bài diễn văn có sức tái tạo lại đất nước sau cuộc nội chiến tàn phá nhất trong lịch sử Mỹ. Bài diễn văn toát lên tinh thần trách nhiệm cao cả nhất của tất cả những người còn sống đối với sự nghiệp tự do của dân tộc mà vì nó biết bao chiến sĩ đã ngã xuống; khẳng định lại lý tưởng tự do, bình đẳng đã được khắc ghi trong bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, của tinh thần Jefferson, như những chân lý bất di bất dịch, và khẳng định tinh thần trách nhiệm của mọi công dân bảo vệ và vun đắp lý tưởng đó. - 1493: Cristoforo Colombo đổ bộ lên hòn đảo mà ông đặt tên là San Juan Bautista, ngày nay là Puerto Rico. - 1969: Những bản tin đầu tiên xuất hiện rằng quân đội Mỹ ở Việt Nam đã thảm sát thường dân ở Làng Mỹ Lai vào tháng 3 năm 1969.
Nếu bạn quan tâm về những gì mình viết trên facebook, blog, diễn đàn, trang nhà, email, vân vân, nên tự cảm nhận hiệu quả của viết lách và kể chuyện của bản thân như thế nào? Quá trình “Vận chuyển tường thuật” trong thế giới điện tử trực tuyến là một trong vấn đề xã hội và cá nhân đáng chú trọng.Kể chuyện thế kỷ 21 Những tiến bộ trong công nghệ đã giúp chúng ta dễ dàng tiếp cận kiến thức gián tiếp mà chúng ta mong muốn về thế giới (Greenfield 2015; Harris và Sanborn 2013). Kể chuyện trong thế kỷ 21 đã phát triển khi mọi người tìm ra những cách mới để ghi lại, chia sẻ và tiêu thụ các câu chuyện: trò chơi, trải nghiệm cá nhân hoặc tin tức chỉ là một số ví dụ (Lundby 2008). Ngày nay, công nghệ hiện đại đã kết hợp hình ảnh với âm thanh và văn bản, đồng thời trao cho mọi người khả năng trở thành người kể chuyện cá nhân và sử dụng môi trường điện tử cho mục đích riêng (Greenfield 2015). Trong cuộc sống bão hòa công nghệ (Lenhart và cộng sự 2015), việc trao đổi câu chuyện thường diễn ra thô
Các nhà hoạt động đang bận rộn tổ chức các cuộc biểu tình và nhắc nhở chúng ta rằng quá trình chuyển đổi năng lượng đã và đang diễn ra tốt đẹp. Điều gì sẽ xảy ra? Đó là câu hỏi mà nhiều nhà lãnh đạo khí hậu, nhà vận động và những tiếng nói “xanh” đã bắt đầu đặt ra trong thời điểm được mô tả là ”thời điểm đau buồn”. Và từ những suy ngẫm này đã xuất hiện những lời kêu gọi tập hợp, đoàn kết và cam kết dấn thân.
Hôm Chủ nhật cuối tháng 10, hàng ngàn người đã đổ về Công viên Washington Square Park ở New York để tham gia và theo dõi cuộc thi “Tìm người giống Timothée Chalamet” (Timothée Chalamet Lookalike Contest). Bầu không khí của sự kiện trở nên sôi động hơn nhờ có cả sự xuất hiện của Timothée Chalamet thật và cảnh sát để duy trì trật tự; những hình ảnh từ cuộc thi nhanh chóng được lan truyền trên mạng xã hội, làm dấy lên các tranh luận sôi nổi về việc ai mới là người giống Timothée nhất.
Xưa kia, người đứng đầu cai trị nước gọi là vua, hay hoàng đế, nay kêu là quốc trưởng, hay tổng thống, hay chủ tịch nước. Người đứng đầu một quốc gia, xưa và nay, đều có nhiều mưu sĩ ở bên cạnh để góp ý lo việc quốc gia đại sự, những mưu sĩ đó nay gọi là cố vấn, tham mưu. Khi xưa thì gọi là quân sư, thí dụ đệ nhất quân sư thời Tam Quốc (ở Trung Hoa) là ông Gia cát Lượng, ông là quân sư của Lưu Bị. Ông Gia Cát Lượng là người có tài quân sự, chính trị, kinh tế. Ông cũng là người có đạo đức cao thượng trong sáng, có nhân cách và năng lực giúp vua, giúp đời, an dân hoàn hảo.
Hôm đó là thứ Năm và là một đêm hè bình thường tại thị trấn Brownsville, Tennessee. Sau một ngày làm việc ở tiệm giặt đồ Sunshine Laundromat, Elbert Williams, thành viên sáng lập của chi nhánh NAACP, trở về nhà như mọi khi. Cả nhà Williams cùng nghe trận quyền anh hạng nặng giữa Joe Louis và Arturo Godoy. Gần 10 giờ tối, khi họ chuẩn bị đi ngủ, thì bỗng có tiếng gõ cửa.
Trong cuộc bầu cử năm nay, cả Kamala Harris và Donald Trump đều đề ra các kế hoạch lớn như cắt giảm hoặc tăng thuế, cung cấp nhiều gói hỗ trợ cho người dân, thúc đẩy các chính sách quan trọng liên quan đến những vấn đề như quyền phá thai, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường và viện trợ quân sự nước ngoài. Dù ai đắc cử, tất cả các kế hoạch này đều có một điểm chung: chỉ có thể thành hiện thực nếu được Quốc hội thông qua, bao gồm Thượng viện và Hạ viện.
Hiện nay, có khoảng 79 quốc gia trên thế giới vẫn đang thi hành các luật cấm báng bổ tôn giáo (blasphemy laws). Đặc biệt, ở một số quốc gia như Afghanistan, Brunei, Iran, Nigeria, Pakistan và Ả Rập Saudi, vi phạm các luật này có thể bị xử án tử hình. Hoa Kỳ dù không thuộc nhóm các quốc gia này, nhưng cũng có một lịch sử dài về các luật cấm báng bổ tôn giáo. Nhiều thuộc địa của Hoa Kỳ đã ban hành những quy định cấm báng bổ tôn giáo, và về sau chúng trở thành luật của tiểu bang. Mãi đến năm 1952, Tối Cao Pháp Viện (TCPV) Hoa Kỳ mới phán quyết rằng những lời lẽ xúc phạm, bất kính đối với một tôn giáo được coi là quyền tự do ngôn luận và được bảo vệ theo Hiến pháp. Tuy nhiên, quyền này không phải lúc nào cũng được bảo vệ một cách triệt để.
Từ trên cao nguyên Tây Tạng con sông Cửu Long cuồn cuộn chảy như thác lũ xuống phía nam qua tỉnh Vân Nam, tới Lào, Thái Lan, Kampuchia, rồi Việt Nam trước khi ra Biển Đông. May cho Miền Nam là có hồ lớn Tonle Sap ở Campuchia hút đi một phần lớn lượng nước từ thượng nguồn cho nên từ đây dòng sông lại uốn khúc hiền hòa chảy vào Miền Nam. Tới gần biên giới thì con sông chia ra làm 8 nhánh. Nhưng con số 9 được coi là may mắn, vì vậy phải tìm ra cho được một nhánh nữa, tuy là rất nhỏ (dài khoảng 10 dậm) để cộng lại thành ra 9 nhánh, gọi là Cửu Long Giang. Dòng sông Chín Con Rồng uốn mình tưới nước cho vùng đồng bằng Nam Bộ mầu mỡ, phì nhiêu trở thành vựa lúa của cả nước. Người nông dân nơi đây chỉ cần trồng mỗi năm một vụ là cũng đủ ăn, lại còn dư thừa để tiếp tế ra Miền Bắc và xuất cảng
Đôi khi, nhiều người sẽ cảm thấy áp lực vì bị ép buộc phải chọn một căn tính, một bản dạng (identity) thay vì được sống với tất cả các bản sắc thuộc về bản thân. Kamala Harris là một thí dụ dễ hiểu cho tình cảnh phức tạp của những người mang dòng máu đa sắc tộc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.