Hôm nay,  

Đi

04/05/200100:00:00(Xem: 6671)
“Du lịch không còn là một trò xa xỉ, và chưa chắc, là một cuộc du hí. Rất nhiều chuyến đi cần được thực hiện – để về nhà hoặc để bỏ chạy một kẻ thù, để làm việc, hoặc để tìm một nơi chốn nghỉ ngơi sau cùng, hay là bởi vì có một người nào đó bảo bạn đi. Số Xuân Granta này [Spring 2001], là về những chuyến đi như vậy. Bạn có thể gọi, những bài viết, về chuyện cần đi.”
Xin bạn đọc theo dõi chuyến đi của Yangdol, một cô gái nhỏ người Tây Tạng.

*
Vào ngày 19 tháng Chạp, 1996, Deyang, một cô gái mười ba tuổi người Tây Tạng (tên cô có nghĩa là “Hạnh phúc êm đềm”), đã chết vì cháy nắng, khi vượt dẫy Hy Mã Lạp Sơn tới Nepal. Đó là lần vượt biên thứ ba của cô. Lần đầu, cô đã tới được biên giới Nepal. Một tuần lễ sau, một bé trai mười ba tuổi người Tây Tạng, đã chết tại bệnh viện Kathmandu, vì tay chân tê cóng, sau khi thực hiện cùng một chuyến đi như vậy. Vào tháng Một (November) 1998, công an biên phòng Trung Quốc đã bắn một bé trai mười lăm tuổi người Tây Tạng, khi cậu vượt biên giới, và sau đó chết vì những vết thương tại bệnh viện.

Mỗi năm có chừng hơn 2.000 người Tây Tạng tới Nepal và Ấn độ xin tị nạn. Hầu như một nửa là trẻ em. Đa số đều một mình thực hiện chuyến đi, không có bố mẹ đi cùng. Các em chỉ trông cậy vào người dẫn đường, hoặc những người lớn cùng đi.

Hàng ngàn trẻ em đã rời bỏ Tây Tạng theo con đường này, kể từ khi Trung Quốc chiếm đóng Tây Tạng vào thập niên 1950. Một khi tới Ấn Độ, các em được học trong những ngôi trường của người Tây Tạng, theo học vấn truyền thống, vốn đã được thay thế bằng “giáo dục yêu nước” ở quê nhà. (Ở Trung Quốc cũng áp dụng nền giáo dục yêu nước này, cho tới hết trung học).

Xứ Tây Tạng tự do ở hải ngoại đặt thủ đô tại Dharamsala; văn phòng trung ương của Dalai Lama thứ mười bốn cũng đặt tại đây. Ngài đã từng thực hiện một chuyến đi như trên vào năm 1959. Chị/em của Ngài hiện lo điều hành một số trường học dành cho trẻ em Tây Tạng.

Vào năm 1995, nhiếp ảnh viên người Thụy Sĩ, Manuel Mauer, đã bắt liên lạc với một người Tây Tạng toan tính đi bộ, vượt Hy Mã Lạp Sơn, cùng với cô con gái sáu tuổi. Ông đã đồng ý cho Bauer (một người chuyên leo núi) cùng đi.

Dưới đây là những trích đoạn, từ nhật ký của Bauer.

Ngày một: Tôi đang ngồi trong căn phòng một khách sạn ở Lhasa, vừa trở về đây từ một căn cứ quân sự Bayi của quân đội Trung Quốc tại vùng trung tâm Tây Tạng. Bayi có nghĩa là 1 tháng Tám, ngày quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc được thành lập, vào năm 1927. Cứ nhìn cái vẻ bề thế, dũng mãnh của căn cứ trên, là nhìn ra nỗi tuyệt vọng của người dân Tây Tạng, trong việc cố gắng giữ gìn căn cước quốc gia, ngay ở bên trong xứ sở của họ.

Ngày ba: Tôi bắt liên lạc được với một người Tây Tạng, đang dự tính đưa bé gái sáu tuổi qua Ấn Độ sống lưu vong. Mong ước ôm ấp trong năm năm trời của tôi như vậy là có cơ hội thực hiện.

Ngày bốn: Gặp gỡ lần đầu giữa tôi và Kelsang đã diễn ra tại một khu thương xá của người Trung Quốc tại Lhasa. Ông tính mua một đôi giầy cho chuyến đi. Đôi giầy là rất quan trọng, nếu không muốn bị tê cóng, có thể dẫn tới chuyện phải cưa chân khi tới bến an toàn.

Ngày bẩy: Kelsang dẫn tôi tới gặp gia đình ông tại khu phố cổ của thành phố. Phố xá vắng hoe. Đồng hồ Lhasa vặn theo đồng hồ Trung Quốc, và người Trung Quốc có thói quen đi ngủ sớm. Vợ và bà má của ông đón tiếp tôi với chút nghi ngờ; một bé gái bưng khay trà mời khách. Đó là Yangdol. Những cử chỉ điệu bộ của cha mẹ cô, là để diễn tả, họ đặt mọi niềm tin cũng như hy vọng vào cô bé: như là người tiếp tục truyền thống gia đình và Tây Tạng, ở bên ngoài đất nước.

Ngày chín: Tôi đóng vai một người chuyên môn bán đồ cổ. Kelsang là một người thợ mộc, và như thế chuyện tới lui nhà ông không gây nghi ngờ. Trung Quốc không muốn có một thái độ báo chí tiêu cực, về sự có mặt của họ tại Tây Tạng, thành thử mọi tiếp xúc với ký giả nước ngoài đều bị hạn chế tối đa. Mãi khuya, Kelsang gõ cửa phòng tôi. Ông có vẻ ngà ngà, và cho biết đã “dụ” được một viên chức cao cấp cấp cho ông và con gái một giấy di chuyển, cho phép đi hành hương ở Hồ Manasarovar. Tốn khá nhiều rượu, và tiền bạc, nhưng được việc. Riêng tôi cũng xoay được một giấy phép tới Kathmandu, đoạn đầu cuộc hàønh trình.

Ngày mười: Chúng tôi rời Lhasa, ở thùng sau một chiếc xe tải. Tới đêm, tại trạm ngưng đầu tiên, chúng tôi được cho biết, nên chờ vài ngày hãy tiếp tục, vì thời tiết xấu. Yangdol và ông bố sử dụng mấy ngày rảnh rỗi bất ngờ vào việc cầu nguyện cho chuyến đi bình an, tại một tu viện gần đó. Còn tôi, lo tập dượt leo núi, bằng những ngọn đồi kế bên, và ngắm đàn kên kên vần vũ tại khu đất dành cho những người đã chết. Người Tây Tạng thường cắt những xác chết ra thành từng mảnh, để lộ thiên ngoài trời, để cho cái xác kia tự hoàn thành một kiếp người của nó, theo đúng luật lệ của thiên nhiên.

Ngày mười lăm: Liên lạc độc nhất giữa tôi và Kelsang, là qua những dấu hiệu, trên lớp bụi khách sạn, cho biết ngày nào có thể tiếp tục cuộc hành trình. Mấy người ở trong khách sạn đã có vẻ nghi ngờ tôi.

Ngày mười bẩy: Chuyến đi tiếp tục, bằng xe tải, tới chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Chúng tôi có thể nhìn thấy đỉnh Everest, và Cho Oyu, cao tám ngàn mét, từ phía xa.

Ngày mười tám: Buổi sáng, chúng tôi đi nhờ xe tới một vùng cao nguyên rộng lớn. Khi đi qua một trại binh, chúng tôi quyết định đi bộ tiếp. Bộ dạng chúng tôi thật đáng nghi ngờ, và bất cứ một chiếc xe nhà dép nhà binh nào cũng có thể chặn bắt chúng tôi. Cứ mỗi lần nghe tiếng động, hoặc một vật di chuyển, là chúng tôi tìm kiếm chỗ ẩn núp. May mắn thay, thường là bò hoặc cừu. Chúng tôi lội qua những con sông đóng băng, lớp băng tan lách cách dưới chân. Tới chiều, chúng tôi ngừng tại một làng nhỏ. Ông trưởng làng tỏ ra rất bực bội, vì sự hiện diện của tôi, và ông giữ tất cả giấy phép di chuyển qua đêm, để kiểm tra. Chúng tôi trọ tại một nhà trong làng. Yangdol tìm cách đánh bạn với chú mèo.

(còn tiếp)
Jennifer Tran chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi Tết gần kề, như hiện tại, các diễn đàn thân hữu thường thả cho nghe vài bản nhạc Xuân. Và cứ lập lại khoảng mươi bài quen thuộc, không đủ để khích động tình xuân đang khuấy động trong lòng người chờ đón Xuân. Nhân cơ hội này mình vào lục soạn, tìm thấy quá nhiều bản nhạc về Xuân. Cả một kho tàng văn học nghệ thuật của Miền Nam Việt Nam – loại nhạc Vàng mà CS muốn giết nhưng vẫn sống mạnh và làm thay đổi hướng cảm nhận tình quê hương và lòng người lan rộng từ Nam ra Bắc.
Xin mạn phép mở ngoặc ở đây giải thích ngắn gọn. Trước hết, Ca dao là " những câu thơ của dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định và thông thường được phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ và dễ thuộc ". Đặc biệt hơn chính ca dao đã để lại dấu vết rõ rệt nhất trong ngôn ngữ văn học Việt Nam. Trong đó phần lớn nội dung ca dao thể hiện tình yêu nam nữ. Ngoài ra còn có các nội dung khác như: quan hệ gia đình, các mối quan hệ phức tạp trong xã hội. Và tóm lại ca dao có thể được hiểu theo nghĩa ngắn gọn là những câu thơ dân gian được truyền miệng từ xưa do tổ tiên ta để lại.
Hoàng Sa (Paracel Archipelago) là một quần đảo gồm khoảng trên 100 đảo nhỏ trên Thái Bình Dương (Biển Đông), giữa kinh tuyến 111 và 113 độ Đông, và vĩ tuyến 15 đến 17 độ Bắc, ngang với vùng bờ biển từ tỉnh Quảng Trị đến tỉnh Quảng Ngãi. Quần đảo nầy gồm hai nhóm: Nhóm phía tây là Nguyệt Thiềm (hay Trăng Khuyết) (Crescent group) và nhóm phía đông bắc là An Vĩnh (Amphitrite group). Trong lịch sử, nhiều tài liệu chứng tỏ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông thuộc chủ quyền nước Việt. Có thể trước hoặc trong thơi Hiên Vương Nguyễn Phúc Tần (cầm quyền ở miền nam sông Gianh từ 1659-1687), chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa, nhiệm vụ ra vào hàng năm theo mùa gió, nhằm kiểm soát và khai thác tài nguyên ở quần đảo nầy. Từ thời nhà Nguyễn, hàng năm, triều đình gởi thuyền ra Hoàng Sa thăm dò rồi trở về. Năm 1835 vua Minh Mạng sai thuyền chở gạch đá, đến xây đền trên đảo Bàn Than (thuộc Hoàng Sa), dựng bia để ghi dấu, gieo hạt trồng cây.
Từ lần xuất bản đầu tiên và duy nhất năm 2001, cuốn sách đã tuyệt bản này là nguồn tư liệu vô giá về một giai đoạn dày đặc biến động của lịch sử Việt Nam thế kỷ 20. Đọc lại những ghi chép của nhà thơ Trần Dần (1926-1997) về thời kì Cải cách Ruộng đất và Nhân văn-Giai phẩm, tôi vẫn kinh ngạc bởi sự thành thực tận cùng, thành thực đến tàn nhẫn khắc nghiệt, của ông với chính bản thân mình. Cuộc vật lộn của ông với thời đại không phải chỉ là một bi kịch từ vị thế nạn nhân mà đa tầng, đa diện hơn nhiều: Ông cũng là một tác nhân và trước hết là một chứng nhân lỗi lạc, với một khả năng quan sát, phân tích, ghi nhận, diễn đạt hiếm có và một lí tưởng sục sôi cháy bỏng với nghệ thuật văn chương.
Lời người dịch: Một trong những câu hỏi mình luôn gặp phải là mọi người đều muốn "hiểu" một tác phẩm, một bản nhạc cổ điển, một tác phẩm điêu khắc, một bức tranh trừu tượng,... Và dù có giải thích rằng chúng ta không cần hiểu thì mọi người vẫn luôn băn khoăn. Một tác phẩm nghệ thuật thường vốn không mang nhiều nội dung ngoài vẻ đẹp của nó, trong âm nhạc là giai điệu (lời hát chỉ là một phần rất phụ), trong tạo hình thì là đường nét và bố cục. Và chúng ta nên thưởng thức nghệ thuật bằng cái nguyên sơ của một đứa trẻ. Thật trớ trêu khi càng có nhiều tri thức, chúng ta lại càng khó tiếp thu nghệ thuật vì suy nghĩ quá nhiều. Tác phẩm của Susan Sontag đã được dịch ra tiếng Việt thì có "Bàn về nhiếp ảnh" do Trịnh Lữ dịch. Một quyển sách mà mọi người yêu nhiếp ảnh hay chỉ thích xem ảnh cũng nên đọc. Và bài tiểu luận "Chống diễn giải" này mình cho rằng với những người nào muốn thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật, hay luôn trăn trở về việc để "hiểu" nghệ thuật thì cũng nên đọc. Vừa để c
LTS: Bài viết sau của cụ bà Đinh Thanh Trang kể về một số kinh nghiệm dùng thuốc Nam, thuốc ta chữa bệnh sau khi bệnh viện và thuốc Tây bế tắc
(Fasting For Physical Rejuvenation)       Mặc dù sự cần thiết của Nhịn Ăn đã được chúng tôi nói đến từ nhiều năm qua.Nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều người chưa biết Nhịn Ăn cách nào"Có lợi ích gì"Có hại gì không"
1- “Sữa Ong Chúa” là gì" Giá trị dinh dưỡng và trị bệnh ra sao" Tiếng Anh của Sữa Ong Chúa là “Royal Jelly”.
Nói đến thịt thỏ, cần phân biệt 2 loại thịt thỏ nhà hay rabbit (lapin, theo tiếng Pháp) và thịt thỏ rừng hay hare (lièvre).
Trong lúc các nhà lập pháp liên bang bắt đầu nghỉ hè, chưa thấy phe nào thắng trong cuộc tranh cãi về nhu cầu khoan dầu tại thềm lục địa Hoa Kỳ


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.