Hôm nay,  

Ve Vãn Lịch Sử

14/04/200300:00:00(Xem: 5930)
Ý tưởng viết “To the Finland Station”, (“Tới Ga Phần Lan”, một cuốn sách về chủ nghĩa CS), đến với Edmund Wilson, khi ông đang trên đường xuống phố, vào đúng lúc Cơn Suy Thoái lớn về kinh tế đang ở đỉnh cao. Ông khi đó đang ở cuối tuổi “tam thập nhi lập”, đã có được tí tên tuổi, như phê bình gia và phóng viên nhà báo, đã cho ra lò hai tác phẩm, một, về mấy ông nhà văn hiện đại (Axel’s Castle, 1931), và một, những chuyến đi thực tế vùng xưởng, mỏ (The American Jitters, 1932). Tham vọng của ông lớn hơn nhiều: phải cho ra lò một cuốn tiểu thuyết!

Trước đó, vào năm 1929, ông đã thử tay nghề, với cuốn “Tôi nghĩ về Daisy”, nhưng chẳng ma nào thèm đọc (not a success). Thành thử, ông ngạc nhiên với chính mình, cớ sao lại tham vọng cùng mình, dám đụng tới - những nhân vật lịch sử như là... Quang Trung, Nguyễn Huệ - ấy chết xin lỗi - vị cha già của chủ nghĩa CS, Lê nin, và xuyên xuốt cuộc đời cha già, là cả một thời kỳ lịch sử nóng bỏng của tư tưởng CS, từ Cách Mạng Pháp tới Cách Mạng Nga. Nhưng ông thấy mờ mờ hiện ra, sau bức màn hoành tráng của lịch sử đó, là hình ảnh của... một cuốn tiểu thuyết! “Tôi quýnh lên, vì cuộc thách đố” (I found myself excited by the challenge), ông cho biết sau đó. Chút men say – của cuộc thánh đố – như sôi lên cùng câu văn bỗng hiện ra ở trong đầu Wilson, “I go to encounter for the millionth time the reality of experience and to forge in the smithy of my soul the uncreated conscience of my race.” (Câu nói của Dedalus, ở cuối cuốn Chân Dung, của Joyce, tạm dịch: Tôi tới chỗ hẹn lần thứ một triệu, với thực tại kinh nghiệm, và trong cái lò cử là linh hồn tôi, rèn đúc ý thức nòi giống của mình, vốn chưa từng được tạo ra). Còn cái tựa đề (như một ẩn dụ nói lên Ngày Mai Ca Hát"), mượn đỡ tên một tác phẩm của người đẹp thành London, Virginia Woolf, “To the Lighthouse” (Tới Ngọn Hải Đăng).

Đã từng có kinh nghiệm từ những chuyến đi thăm công nhân mỏ tại vùng Appalachia và Detroit. (Do an ủi, và tiếp tế lương thực cho những người thợ đình công tại Pineville, Kentucky, ông đã bị nhà cầm quyền địa phương cầm lá chuối lót tay, đá đít, cấm cửa), Cơn Suy Thoái làm ông mừng (Cho chết mẹ mày, hỡi con quái vật nhà máy tư bản chủ nghĩa!). Mặc dù hoài nghi Đảng CS, ông hân hoan hồ hởi ôm lấy Chủ nghĩa Mác. Ông bỏ phiếu cho ứng cử viên CS, William Z. Foster, trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1932, và cùng năm, ký tên vào bản tuyên ngôn kêu gọi “một chính sách độc tài tạm thời có tính giai đoạn của những công nhân có ý thức giai cấp” (“a temporary dictatorship of the class-conscious workers.”)

Tuy chẳng bao giờ thò bút ký đơn xin gia nhập Đảng, nghĩa là chẳng bao giờ là một tay CS, nhưng ông tin tưởng, chỉ những người CS mới thực tình giúp đỡ giai cấp công nhân. Vào năm 1935, khi bắt đầu lao vào việc viết “To the Finland Station”, ông còn cố dụ khị ông bạn của mình là nhà văn Dos Passos, rằng Stalin đúng là một tay CS thứ thiệt, “làm việc cho chủ nghĩa xã hội tại Nga Xô” (a true Marxist, “working for socialism in Russia.”).

Chẳng bao lâu liền sau đó, ông “bèn” đi Nga. Và sau đó, viết về những chuyến đi thăm Quê Người, xen lẫn những chuyến đi thăm Quê Mình (Mỹ), nhan đề đầy ấn tượng, “Những chuyến đi giữa Hai Nền Dân Chủ” “Travels in Two Democracies.” Tuy nhiên, ông đã tự kiểm duyệt, bỏ những chi tiết ghi trong nhật ký về nỗi sợ và sự áp bức, kìm kẹp mà ông chứng kiến tại Liên Bang Xô Viết. Và đến năm 1938, ông đành không cho phép mình giả đò nữa, và cho lật tẩy con bài xã hội chủ nghĩa: Họ chẳng những chưa bắt đầu xây dựng những định chế dân chủ. Chưa kịp bắt đầu thì đã trật đường rầy rồi”, ông thú nhận với một người bạn. “Họ có sự thống trị mang tính toàn trị, bởi một bộ máy chính trị” (“They have totalitarian domination by a political machine.”). Ông hiểu rõ, cuốn sách của mình sẽ rất “đoạn trường”. Vào tháng Mười 1939 ông buồn bã báo cho Louise Bogan, “Liên Xô đang tính nuốt Phần Lan, còn tôi đang cố tới đó, (cố kết thúc cuốn sách).

To the Finland Station được nhà Harcourt Brace xuất bản tháng Chín, 1940. Không đúng thời điểm tốt đẹp cho một cuốn sách với nhân vật chính của nó là Vladimir Lenin. Một tháng trước đó, tại Mexico, ông trùm của Đệ Tứ Quốc Tế, Leon Trotsty bị chẻ đôi cái đầu bằng một cái dìu chặt đá lạnh (ice axe). Một năm trước đó, Liên Bang Xô Viết đã ký với Đức Nazi bản hiệp ước bất tương xâm, mặc nhiên cho phép Hitler xâm lăng Ba Lan. Năm năm trước đó, Stalin đã đi một đường quét dọn sạch sẽ đối lập chính trị bên trong Liên Bang Xô Viết. Cuộc dọn sạch cỏ “dại” này, là tiếp nối của chương trình tập thể hóa mà hậu quả của nó là cái chết của trên năm triệu người. Vào năm 1940, trí thức Tây Phương kể như vỡ mộng chủ nghĩa CS. Andre Gide, George Orwell, và Dos Passos đã viết những những bản kết toán mới tinh (firsthand accounts) về sự tàn bạo và đạo đức giả của chủ nghĩa CS đương thời – Gide và Dos Passos, sau khi đi Nga về, Orwell, sau khi chiến đấu cùng với những phần tử Loyalists tại Tây ban Nha. Tạp chí Partisan Review (Mỹ), trở thành “tiền đồn” chống Cộng.

Vào tháng Giêng, 1947, “Tới Ga Phần Lan” chỉ bán được 4,527 bản. Nhà xb Doubleday mua lại bản quyền, và tái xuất bản cùng năm, nhưng sách bán ra chỉ lèo tèo. Số mệnh chỉ mỉm cười với nó, với ấn bản bìa mỏng, và cũng là cuốn đầu tiên của nhà sách Anchors, vào năm 1953. Mãi lực khá hẳn ra, vào thập niên 1960, vào năm 1972, tức là năm Wilson từ giã cõi đời, nhà sách Farrar, Straus & Giroux cho ra lò một ấn bản mới, với lời tựa “Nhìn Lại Những Trang Viết Cũ”, đúng ra là nhìn lại Chủ Nghĩa Cộng Sản Xô Viết. “Cuốn sách của tôi,“ ông giải thích, “cho thấy, qua nó, là một bước tiến bộ quan trọng, đã được thực hiện, một ‘đột phá’ đã xẩy ra, và lịch sử nhân loại chẳng còn như trước nữa. Có điều, tôi không ngửi ra được, mùi của thảm họa, rằng Liên bang Xô Viết sẽ trở nên sau đó, một trong những chế độ bạo tàn ghê tởm nhất của nhân loại, và Stalin, một trong những hoàng đế độc ác nhất, và không hề có mảy may tính người, của nước Nga. Cuốn sách của tôi do đó, có thể đọc, như là một bản kết toán khả dĩ tin cậy được, nói về cơ bản, về điều, mà những nhà cách mạng nghĩ rằng, họ đang làm, là vì những quyền lợi cho một thế giới “tốt đẹp hơn’.”

[Với cuộc chiến Iraq hiện đang nóng bỏng, khét lẹt, liệu, những “nhìn lại” của Wilson, là những “nhìn tới”, của chúng ta"].

Jennifer Tran

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong hơn hai thế kỷ qua, Hiến Pháp Hoa Kỳ đã “trưởng thành” cùng đất nước thông qua các tu chính án. Những sửa đổi mang tính lịch sử như Tu Chính Án 13 (xóa bỏ chế độ nô lệ) hay Tu Chính Án 19 (mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ) là minh chứng rõ ràng cho tinh thần ấy: Hiến Pháp không phải là những điều bất biến, mà là một công trình luôn phát triển cùng thời đại.
Năm 1978, Hồng y Karol Józef Wojtyla, Tổng Giám mục Kraków của Ba Lan, được bầu làm giáo hoàng (John Paul II, Gioan Phaolô II). Năm 1980, thi sĩ Czesław Miłosz, giáo sư gốc Ba Lan tại Đại học Berkeley, được trao giải Nobel Văn chương, là người đầu tiên của trường nhận giải Nobel không phải trong lãnh vực khoa học và ông có những quan tâm đến tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Từ đó tôi chú ý đến đất nước Ba Lan nhiều hơn, nhất là chuyến trở về quê hương lần đầu tiên của Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1979.
Ngày 11 tháng 9 năm 2001, vợ chồng sắp bay sang Ý dự đám cưới con gái vào ngày 12. Sáng ấy, ông vẫn dậy 4 giờ rưỡi, tắm, hát điệu music-hall, mặc bộ pin-stripe xanh đậm – ông bắt nhân viên an ninh mang áo cà vạt mỗi ngày; nhiều người khó, ông tự móc tiền mua cho. 8 giờ 15 như lệ, gọi cho Susan. Nửa giờ sau, Susan đang nói chuyện với con thì đầu dây khác reo: “Mở tivi lên!” Tháp phía bắc bốc khói. Bà gọi văn phòng chồng; đồng nghiệp bảo: “Rick đang ngoài hành lang, cầm loa, đưa mọi người ra.” Ở Florida, Dan Hill xem tivi thì điện thoại reo: Rick gọi từ di động. “Tôi đang sơ tán.” Hill nghe ông dùng loa, giọng bình tĩnh, rồi bật hát bài “Men of Harlech”: “Đứng vững, người Cornwall ơi… đừng bao giờ chịu khuất.” Rick nói thêm: Ban quản trị toà nhà bảo ở yên. “Tôi bảo hắn cút đi,” Rick nói. “Những tầng trên điểm trúng sẽ sập, kéo cả nhà xuống. Tôi đưa người của tôi ra.” Vài phút sau, máy bay thứ hai ngoặt trái lao vào tháp nam. Susan bấm gọi; không ai bắt máy...
Về mặt pháp lý và hình sự ở châu Âu, hiện nay không có một Tòa án Hình sự duy nhất nào có thẩm quyền chung cho toàn châu Âu như kiểu “Tòa án Tối cao Hình sự châu Âu”. Tuy nhiên, có một số cơ quan và tòa án có thẩm quyền trong một số lĩnh vực nhất định có liên quan đến hình sự chung cho châu Âu. European Union Agency for Criminal Justice Cooperation, EUROJUST không phải là tòa án mà là cơ quan hợp tác tư pháp hình sự của Liên minh châu Âu, có chức năng hỗ trợ và điều phối hợp tác điều tra và truy tố hình sự xuyên biên giới giữa các quốc gia thành viên. Các tội phạm xuyên quốc gia là khủng bố, buôn ma túy, rửa tiền, tội phạm mạng... Cơ quan này có trụ sở đặt tại The Hague, Hà Lan.
Năm 1969 ông Hồ qua đời, đúng vào Ngày Quốc khánh 2/9 nên lãnh đạo Hà Nội đã “cho ông sống thêm một ngày” vì thế trên các văn kiện của Đảng Lao động lúc bấy giờ, ông Hồ được xem như chính thức sinh ngày 19/5/1890, mất ngày 3/9/1969, hưởng thọ 79 tuổi.
LTS: Tuần qua, tòa soạn nhận được bản tin có tựa đề: Picnic “Mừng” Cách Mạng Tháng Tám Ngay Thủ Đô Tị Nạn của Tổ Chức VietRise. Bản tin viết: Ngày 16 tháng 8, VietRise đã tổ chức một buổi picnic mùa hè, với chủ đề về Cách Mạng Tháng Tám (CMT8) và Hồ Chí Minh (HCM), nhấn mạnh ‘thành tích’ giành lại chủ quyền dân tộc cho Việt Nam và phong trào này đã ‘thành công’ ra sao. Cùng thời điển, Nguyễn Phan Quế Mai, ngòi bút Việt nổi tiếng đã đăng trên FB (18/8): “Tập thơ mới của tôi, Màu Hòa Bình, sẽ được Black Ocean Publishing xuất bản tại Hoa Kỳ đúng vào ngày 2 tháng 9 (ngày Quốc khánh Việt Nam).” Những sự việc nối tiếp ấy đã dấy lên nhiều thư từ bài viết phản biện, khơi lại ý nghĩa của 19/8 và ngày 2/9 đối với cộng đồng tị nạn. Bài viết dưới đây của tg Minh Phương là một biên soạn công phu, góp phần vào cuộc đối thoại này.
Trong thời gian qua, dư luận chú ý nhiều đến cuộc đối đầu giữa Tòa Bạch Ốc và các đại học danh tiếng như Columbia hay Harvard. Tuy nhiên, cuộc tranh chấp này đã vô tình che lấp vấn đề sâu rộng và nghiêm trọng hơn: chính quyền Trump cùng nhiều tiểu bang đang tiến hành một chiến dịch nhắm vào hệ thống giáo dục công lập K-12
Có lẽ nếu lịch sử, nói chung, có bất kỳ một huyền thoại thuần khiết nào, thì sự vươn mình trỗi dậy của người Mỹ gốc Phi để bước ra khỏi địa ngục, chính là sự thuần khiết nhất. Bởi vì, huyền thoại của họ được viết từ chính nhận thức của lương tri và sức mạnh của trí tuệ. Huyền thoại của họ là ánh sáng phát ra từ bóng tối.
Trong thời đại của những dòng tin tức u ám và bầu không khí chính trị đầy bất an, hành động tập thể và tổ chức vận động ở cấp cơ sở vẫn lặng lẽ tỏa sáng như ánh lửa ấm giữa đêm dài, không chỉ giúp xua tan tuyệt vọng mà còn khơi lên hy vọng thay đổi và tiến bộ. Chính ánh lửa đó đã thôi thúc những người bất đồng với Tổng thống Donald Trump xuống đường. Các cuộc biểu tình trong suốt mùa xuân và mùa hè đã cho thấy sự phản đối mạnh mẽ (không chỉ riêng ở Hoa Kỳ mà còn lan ra toàn thế giới) đối với nghị trình của chính quyền Trump, đặc biệt là các nỗ lực nhằm thâu tóm quyền lực và phá hoại các cơ quan và dịch vụ công trọng yếu. Hậu quả từ các chính sách ấy chủ yếu đè nặng lên các cộng đồng vốn đã chịu nhiều thiệt thòi: di dân, người nghèo, người da màu, phụ nữ và cộng đồng LGBTQIA+.
Khi ngày kỷ niệm 250 năm Tuyên Dương Độc Lập đang đến gần, Hoa Kỳ đứng trước một câu hỏi quan trọng: Liệu một trong những giá trị cốt lõi nhất của bản Tuyên Dương – rằng chính phủ phải hoạt động minh bạch, có trách nhiệm trước nhân dân và tuân thủ pháp luật – có còn được giữ vững? Trước khi bản Tuyên Dương Độc Lập ra đời, các nhà lập quốc đã lên án việc chính quyền Vua George III chà đạp nhân quyền của các thuộc địa. Không chỉ vậy, họ còn đưa nguyên tắc bảo vệ vào Hiến pháp sau này, thông qua khái niệm gọi là “quyền được xét xử công bằng” (due process).


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.