Hôm nay,  

Cha Nguyễn Văn Lập

22/12/200100:00:00(Xem: 6315)
I. MỘT THANH NIÊN GỐC QUẢNG TRỊ
Tôi được biết Cha Lập vào khoảng cuối năm 1952, khi Ngài còn làm Cha sở họ Phanxicô, nơi có ngôi nhà thờ Gothic rất đẹp mà thiên hạ thường gọi là nhà thờ nhà nước. Nhưng quê quán của ngài là Quảng Trị, một tỉnh nằm về phía Bắc Thừa Thiên, nơi có những truyền thống lâu đời và một lịch sử anh hùng bất khuất. Con người Quảng Trị là con người có tinh thần chiến đấu cao, có ý chí mạnh và có lòng nhẫn nại làm việc gì cũng làm đến cùng. Khi tôi được biết Ngài, Cha Lập đã du học ở Pháp lâu năm, đỗ cử nhân Sử Học và đang dạy Sử tại trường Quốc Học và Thiên Hữu (Providence), và sau đó là trường Bình Minh, ngôi trường tư thục mà Cha đã vận động nhóm trí thức Công Giáo Huế chúng tôi đồng thành lập. Ai đã tiếp xúc với Ngài và nhất là đã học với ngài đều công nhận rằng óc của Cha Lập là óc Sử gia cho nên Ngài nói điều gì cũng có chứng cớ lịch sử, ý kiến được trình bày một cách mạch lạc, tân tiến và đầy tính cách thuyết phục. Các bài giảng của Ngài ở nhà thờ cũng có tính cách ấy, nghĩa là bố cục chặt chẽ, lý luận vững vàng và chi tiết cụ thể. Tôi còn nhớ như in những bài giảng của Ngài về lễ Phục Sinh. Chúa bị hành hạ như thế nào, mão gai được kết bằng loại gai gì, Chúa chết vì lý do gì, vào lúc ấy có ai chứng kiến và Chúa đã sống lại trong trường hợp cụ thể nào... Nhờ các chứng kiến lịch sử, bài giảng trở nên linh động và dễ gây cảm xúc cho người nghe. Tôi chắc rằng những ai được nghe Cha giảng đều thích như tôi... Được như vậy, vì cha là một người gốc Quảng Trị (nơi người ta phát âm chữ "ông" là "ôông" một cách kính trọng).
Cha Lập một đôi khi có tuyên bố rằng Cha có mặc cảm về bằng cấp vì Cha mới chỉ đỗ Cử nhân mà lại đảm nhiệm chức vụ Viện Trưởng Đại Học. Thực ra đó là vì Cha quá khiêm tốn mà nói thế. Vào thế hệ của Cha, đỗ cử nhân là đã giật được mảnh bằng có giá trị nhất, lý do là vì thời đó bằng cử nhân có mức độ cao hơn bằng cấp cử nhân sau này. Lý do thứ hai là ngoài ông nghè Nguyễn Mạnh Tường ra, đa số trí thức chỉ có cử nhân là cao nhất. Tỉ dụ như GS Nguyễn Huy Bảo (Triết), LM Cao Văn Luận (Triết), LM Lê Văn Ân (Sử), ngay về sau này, các giáo sư cũng chỉ có bằng cử nhân, như GS Bùi Xuân Bào, Trần Quang Ngọc, Nguyễn Văn Hai, Lê Xuân Mai... Vả lại giá trị một con người đâu chỉ căn cứ vào bằng cấp. Cha Lập nói: "Cha đã đặt vào công trình giáo dục tất cả lương tâm và linh hồn của Cha". Đó là một điều kiện tinh thần mà một nhà lãnh đạo nào cũng phải có, huống chi ở Cha Lập, điều kiện ấy được thể hiện trên một mức độ tuyệt đối cao.

II. MỘT LINH MỤC CỦA THANH NIÊN
Vào năm 1952, Cha Lập là một Linh Mục khoảng trên 30 tuổi. Đầu tiên, tôi nói điều này, các bạn đừng cười nhé: Ngài rất đẹp trai với làn da trắng mát, môi lúc nào cũng đỏ thắm như ăn trầu (không như môi các cô có bôi son), miệng hay cười tủm tỉm nhưng cũng đủ để lộ ra một làn da trắng nõn. Chúng tôi thường ví Cha như Clark Gable trong phim "Autant en emporte le ven" (Cuốn Theo Chiều Gió) nhưng là một Clark Gable không ria. Giọng Ngài không mạnh lắm, Ngài hát không hay, nhưng Ngài có biệt tài kể chuyện. Các anh chị em sinh viên chức đã có nhiều dịp nghe Ngài nói chuyện, và phải công nhận Ngài rất có duyên.
Ngài rất chú trọng tới thanh niên. Tôi được ngài giao cho nhiệm vụ săn sóc các học sinh trường Quốc Học và trường Lycée Francais là hai ngôi trường lớn ở Huế. Ngài có chỉ dẫn cho tôi cách tiếp cận thanh niên, hiểu tâm lý và nguyện vọng của họ, nhất là Ngài giải thích cho tôi hiểu sự khác biệt giữa người Bắc và người Trung. Người Trung kín đáo, hướng nội, thích đời sống tâm linh, giàu tình cảm và dễ xúc động. Tiếp xúc với họ, không cần nhiều lời, nhất là phải tránh những lối nói khoe khoang, chủ quan, thiếu thành thật.
Ngài lo cho thanh niên rất chu đáo, giúp họ về đời sống tinh thần, cũng không quên giúp họ về vật chất. Ngài rất chú trọng đến những phương tiện thể thao. Chính Ngài đã phổ biến cách chơi cầu lông. Và rất thích chơi bóng chuyền, bóng rổ, quần vợt. Ngài cũng thấy vai trò quan trọng của âm nhạc. Ngài đã mang về Huế những máy móc thâu băng đủ mọi hiệu cùng những loại dụng cụ âm nhạc. Ngài thường cho tổ chức những buổi văn nghệ, ca nhạc kịch và khuyến khích thanh niên ca múa, hát xướng. Khỏi nói rằng khi Ngài làm Hiệu Trưởng trường Bình Minh, Huế, trường Thiên Hựu, Huế, Đại Học Đà Lạt, Ngài đã tích cực chủ trương thực hiện câu: men sana in corpore sano (tinh thần lành mạnh trong một cơ thể lành mạnh) và khẩu hiệu "mau hơn", "mạnh hơn", "cao hơn" của giới điền kinh.

III. MỘT VIỆN TRƯỞNG TÀI BA
Tôi được Ngài cho lên Đà Lạt dạy Việt văn rất sớm. Mỗi lần từ Huế và sau 1963 từ Sàigòn lên Đà Lạt dạy học, tôi và các Giáo Sư được tiếp đãi như các vị thượng khách. Ngài có sáng kiến dành cho mỗi Giáo Sư một phòng, có toilet riêng rất tiện lợi. Các Giáo Sư ăn cơm với Cha ở phòng cơm, được ăn những món ăn ngon và sang trọng không kém gì các nhà hàng lớn ở ngoài phố, có khi lại còn hơn nữa, nhất là về các thứ rượu vang hảo hạng mà Ngài mua sắm một cách đặc biệt cho các Giáo Sư sành rượu.
Đối với sinh viên, Ngài tiếp xúc thân mật với mỗi người, hiểu rõ đời sống và nhu cầu của họ và sẵn sàng giúp đỡ lúc anh chị em lỡ cơ hoặc thiếu may mắn. Tôi biết có nhiều trường hợp Ngài đã tận tình viện trợ cho những anh chị em phải nằm nhà thương, hoặc khi lấy vợ lấy chồng. Tôi đã dự được những buổi hôn lễ hoặc tổ chức đơn sơ hoặc linh đình, nhưng lúc nào cũng thân mật và ấm cúng. Có thể nói vắn tắt: Sinh viên là lẽ sống của Cha và giúp đỡ sinh viên có phương tiện ăn học là một vấn đề mà Ngài coi là nhiệm vụ trọng đại vô cùng cần thiết.


Mỗi lần có ai xin Ngài điều gì, sau khi suy nghĩ đắn đo một chút, Ngài thường nói: "Ừ thì được". Câu ấy có nghĩa là: Đúng ra thì không được nhưng tôi ưa cho anh chị, tôi vui lòng chấp thuận (mặc dù lời xin đó không đáng chấp thuận). Ngài rộng lượng như thế đó, có đáng hoan hô không "

IV. MỘT VIỆN TRƯỞNG KHÔNG KỲ THỊ
No-discrimination là khẩu hiệu của Ngài. Không bao giờ Ngài phân biệt giáo lương khi phát gạo, phát áo quần, phát tiền. Có khi Ngài lại tỏ ra "thiên vị" người lương là đàng khác. Khi phát học bổng cho sinh viên, cũng không bao giờ Ngài phân biệt tôn giáo. Các Phật tử được Ngài chú trọng đến một cách riêng. Hình như Ngài đã giúp cho nhiều Phật tử học ở Nhật, ở Pháp.
Tôi nhớ khi tôi còn dạy ở Đại Học Huế, tôi đã hướng dẫn sinh viên Đại Học Sư Phạm lên nghỉ hè tại Đại Học Đà Lạt. Chúng tôi đã xây một "pháp luân" (bánh xe pháp) trên một ngọn đồi. Ngài đã cho xây thêm một vài kiến trúc phụ để biến khu này thành một lâm viên nhỏ rất ngoạn mục. Mỗi lần lên dạy học, đi qua khu vực này, tôi lại thán phục tinh thần tôn giáo rất tốt đẹp của Cha Viện Trưởng.
Ngài còn đặc biệt chú trọng đến thân phận của người nghèo và các sinh viên nghèo. Các sinh viên nghèo (vì sống xa gia đình, vì mồ côi, vì bị tật nguyền, vì sa cơ lỡ vận) đều được Ngài cho vay tiền, cho miễn học phí, cư trú phí. Có khi được cho vay tiền và không phải trả nữa. Các nhân viên làm việc dưới quyền Ngài, ai cũng được nâng đỡ tối đa về vật chất, được đối xử bình đẳng, có công ăn việc làm chắc chắn và nơi ăn chốn ở đàng hoàng. Điều này, chính tôi đã thấy và rất kính phục tinh thần xã hội cao cả của Cha Lập đáng kính.

V. MỘT NHÀ KINH DOANH CÓ NHIỀU SÁNG KIẾN
Về tài lãnh đạo của Cha Lập, ai cũng thấy là tuyệt luân. Nói như Lão Tử, Ngài vô vi, nghĩa là Ngài điều khiển mà như không điều khiển. Việc gì Ngài cũng tính toán từ trước, có planning như ta nói ngày nay, từ nhiều năm nhiều tháng trước. Tỉ dụ việc thành lập trường Chính Trị Kinh Doanh, tôi biết Ngài đã có ý định từ khi còn ở Huế. Việc gì Ngài làm đều có tính dự phóng của một nhà kinh doanh như việc điều khiển họ Phan-xi-cô, quản lý trường Thiên Hựu, việc thành lập trường Tư Thục Bình Minh v.v... Ngài đã thiết lập các quy hoạch và dự án từ các năm trước.
Tôi xin nói rõ hơn nữa về việc tổ chức phân khoa Chính Trị Kinh Doanh. Các anh chị đừng tưởng là mọi sự đều dễ dàng đâu nhé " Nếu tôi không lầm, thì Cha Lập đã gặp nhiều người chống đối, mạnh nhất là về phía hàng giáo phẩm, tức là về phía các Linh Mục có quyền hành. Họ lý luận: "Tiền đâu mà tổ chức kinh doanh " Tại sao một trường Kinh Doanh mà không là một trường Thần Học. Trường Công Giáo sao lại tổ chức kinh doanh " Làm như thế không sợ họ cười cho ư" Cười cho bọn Công Giáo chạy theo tư bản "". Thôi thì đủ thứ lý do, và đủ loại chống đối. Ngay trong các giáo sư cũng có nhiều người không đồng tình với Cha Lập.
Một cách khôn ngoan nhưng cương quyết, Cha Lập âm thầm vận động dư luận để tổ chức phân khoa Chính Trị Kinh Doanh. Ngài mời các giáo sư kinh tế đến thảo luận về kế hoạch, về chương trình. Ngài quyết định lựa chọn Khoa Trưởng (giáo sư Phó Bá Long), thành lập Hội Đồng khoa (giáo sư Trần Long, Ngô Đình Long, gọi là tam long tề phi, trong đó các "long nữ" cũng hoạt động rất tích cực).
Sinh viên càng ngày càng đông. Các co-op đã được thành lập, tư liệu học tập ngày càng phong phú. Trường được đón nhận một cách niềm nở.
Ngay trước 1975 đã có nhiều sinh viên tốt nghiệp được mời đảm nhận những chức vụ quan trọng sinh hoạt kinh tế tài chính, chính trị của quốc gia. Sau 1975, tại Việt Nam và nhất là ở hải ngoại, sự thành công của trường càng ngày càng được khẳng định và công nhận. Đây là một hoạt động ngoạn mục nhất của Cha Lập về địa hạt giáo dục. Ngài đã được Bộ Giáo Dục và Giáo Hội Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh.. Nhưng hoan nghênh Ngài một cách tận tình nhất, thân thiết nhất vẫn là các sinh viên Đại Học Chính Trị Kinh Doanh. Với sự thiết lập phân khoa này, Cha Lập đã thực hiện khẩu hiệu Thụ Nhân (trồng người) của Quản Trọng một cách khoa học, cũng như Ngài đã thực hiện chương trình Hội Hữu (quân tử dĩ văn hội hữu) cho sinh viên Văn Khoa, chương trình Cư Dị cho sinh viên Đại Học Sư Phạm một cách vô cùng tốt đẹp.

NGƯỜI CHA NHÂN LÀNH
Với Chúa Kitô được tôn thờ như một kiểu mẫu, Cha Lập cư xử với mọi người như một người Cha hiền lành, nhân từ. Với các giáo dân, Ngài là một Chủ Chiên đã hy sinh vì đàn chiên. Ngài không di cư, không di tản khi đàn chiên của Ngài bị đe dọa về an sinh, về đời sống. Điều này chính Ngài đã thổ lộ với tôi, cho nên tôi mạnh dạn nói lớn ở đây...
Đối với sinh viên, bất kể là lương hay giáo, Ngài là một người Cha lành, luôn luôn săn sóc sức khỏe tinh thần và thể chất cho từng cá nhân sinh viên. Ngài biết tên từng người. Với óc sử học sắc bén, Ngài hiểu rõ từng gia cảnh, từng gốc gác, từng địa phương. Có người nói Ngài thương nhất sinh viên gốc Quảng Trị, sau mới đến Huế, Đà Lạt... và cuối cùng là Bắc Kỳ ("). Nhưng đó là nói sai, tôi là dân Bắc Kỳ, tôi làm chứng là Ngài không bao giờ có óc kỳ thị. Tôi biết có đôi lần tôi đã làm phật ý Ngài, nhưng không bao giờ Ngài để tâm. Với mọi người, Ngài đều nói: "Ừ thì được".
Đức tính khiến cho Ngài dễ trở thành một Cha lành là Ngài có từ tâm, có lòng quảng đại, nhiệt tình (charisme) lúc nào cũng sẵn sàng ứng đáp (disponible). Ai cũng nói rằng lúc nào muốn cần đến Ngài, muốn điện thoại cho Ngài là thấy Ngài có ở nhà, ở bàn giấy. Đối với mọi người, không lúc nào Cha vắng mặt, hình như Cha được Chúa tạo ra lúc nào cũng có mặt để giúp đỡ.
Gần một nửa thế kỷ sống bên cạnh Ngài, được chứng kiến những việc làm và những tính tốt có thể nói là siêu phàm.

(Trích từ Kỷ Yếu Quảng Trị năm 2000, tr. 216)

Ý kiến bạn đọc
17/10/202515:31:42
Khách
Cha Lập, Viện Trưởng VDH Đà Lạt là 1 nhà lãnh đạo Tuyệt vời.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong hơn hai thế kỷ qua, Hiến Pháp Hoa Kỳ đã “trưởng thành” cùng đất nước thông qua các tu chính án. Những sửa đổi mang tính lịch sử như Tu Chính Án 13 (xóa bỏ chế độ nô lệ) hay Tu Chính Án 19 (mang lại quyền bầu cử cho phụ nữ) là minh chứng rõ ràng cho tinh thần ấy: Hiến Pháp không phải là những điều bất biến, mà là một công trình luôn phát triển cùng thời đại.
Năm 1978, Hồng y Karol Józef Wojtyla, Tổng Giám mục Kraków của Ba Lan, được bầu làm giáo hoàng (John Paul II, Gioan Phaolô II). Năm 1980, thi sĩ Czesław Miłosz, giáo sư gốc Ba Lan tại Đại học Berkeley, được trao giải Nobel Văn chương, là người đầu tiên của trường nhận giải Nobel không phải trong lãnh vực khoa học và ông có những quan tâm đến tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Từ đó tôi chú ý đến đất nước Ba Lan nhiều hơn, nhất là chuyến trở về quê hương lần đầu tiên của Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào năm 1979.
Ngày 11 tháng 9 năm 2001, vợ chồng sắp bay sang Ý dự đám cưới con gái vào ngày 12. Sáng ấy, ông vẫn dậy 4 giờ rưỡi, tắm, hát điệu music-hall, mặc bộ pin-stripe xanh đậm – ông bắt nhân viên an ninh mang áo cà vạt mỗi ngày; nhiều người khó, ông tự móc tiền mua cho. 8 giờ 15 như lệ, gọi cho Susan. Nửa giờ sau, Susan đang nói chuyện với con thì đầu dây khác reo: “Mở tivi lên!” Tháp phía bắc bốc khói. Bà gọi văn phòng chồng; đồng nghiệp bảo: “Rick đang ngoài hành lang, cầm loa, đưa mọi người ra.” Ở Florida, Dan Hill xem tivi thì điện thoại reo: Rick gọi từ di động. “Tôi đang sơ tán.” Hill nghe ông dùng loa, giọng bình tĩnh, rồi bật hát bài “Men of Harlech”: “Đứng vững, người Cornwall ơi… đừng bao giờ chịu khuất.” Rick nói thêm: Ban quản trị toà nhà bảo ở yên. “Tôi bảo hắn cút đi,” Rick nói. “Những tầng trên điểm trúng sẽ sập, kéo cả nhà xuống. Tôi đưa người của tôi ra.” Vài phút sau, máy bay thứ hai ngoặt trái lao vào tháp nam. Susan bấm gọi; không ai bắt máy...
Về mặt pháp lý và hình sự ở châu Âu, hiện nay không có một Tòa án Hình sự duy nhất nào có thẩm quyền chung cho toàn châu Âu như kiểu “Tòa án Tối cao Hình sự châu Âu”. Tuy nhiên, có một số cơ quan và tòa án có thẩm quyền trong một số lĩnh vực nhất định có liên quan đến hình sự chung cho châu Âu. European Union Agency for Criminal Justice Cooperation, EUROJUST không phải là tòa án mà là cơ quan hợp tác tư pháp hình sự của Liên minh châu Âu, có chức năng hỗ trợ và điều phối hợp tác điều tra và truy tố hình sự xuyên biên giới giữa các quốc gia thành viên. Các tội phạm xuyên quốc gia là khủng bố, buôn ma túy, rửa tiền, tội phạm mạng... Cơ quan này có trụ sở đặt tại The Hague, Hà Lan.
Năm 1969 ông Hồ qua đời, đúng vào Ngày Quốc khánh 2/9 nên lãnh đạo Hà Nội đã “cho ông sống thêm một ngày” vì thế trên các văn kiện của Đảng Lao động lúc bấy giờ, ông Hồ được xem như chính thức sinh ngày 19/5/1890, mất ngày 3/9/1969, hưởng thọ 79 tuổi.
LTS: Tuần qua, tòa soạn nhận được bản tin có tựa đề: Picnic “Mừng” Cách Mạng Tháng Tám Ngay Thủ Đô Tị Nạn của Tổ Chức VietRise. Bản tin viết: Ngày 16 tháng 8, VietRise đã tổ chức một buổi picnic mùa hè, với chủ đề về Cách Mạng Tháng Tám (CMT8) và Hồ Chí Minh (HCM), nhấn mạnh ‘thành tích’ giành lại chủ quyền dân tộc cho Việt Nam và phong trào này đã ‘thành công’ ra sao. Cùng thời điển, Nguyễn Phan Quế Mai, ngòi bút Việt nổi tiếng đã đăng trên FB (18/8): “Tập thơ mới của tôi, Màu Hòa Bình, sẽ được Black Ocean Publishing xuất bản tại Hoa Kỳ đúng vào ngày 2 tháng 9 (ngày Quốc khánh Việt Nam).” Những sự việc nối tiếp ấy đã dấy lên nhiều thư từ bài viết phản biện, khơi lại ý nghĩa của 19/8 và ngày 2/9 đối với cộng đồng tị nạn. Bài viết dưới đây của tg Minh Phương là một biên soạn công phu, góp phần vào cuộc đối thoại này.
Trong thời gian qua, dư luận chú ý nhiều đến cuộc đối đầu giữa Tòa Bạch Ốc và các đại học danh tiếng như Columbia hay Harvard. Tuy nhiên, cuộc tranh chấp này đã vô tình che lấp vấn đề sâu rộng và nghiêm trọng hơn: chính quyền Trump cùng nhiều tiểu bang đang tiến hành một chiến dịch nhắm vào hệ thống giáo dục công lập K-12
Có lẽ nếu lịch sử, nói chung, có bất kỳ một huyền thoại thuần khiết nào, thì sự vươn mình trỗi dậy của người Mỹ gốc Phi để bước ra khỏi địa ngục, chính là sự thuần khiết nhất. Bởi vì, huyền thoại của họ được viết từ chính nhận thức của lương tri và sức mạnh của trí tuệ. Huyền thoại của họ là ánh sáng phát ra từ bóng tối.
Trong thời đại của những dòng tin tức u ám và bầu không khí chính trị đầy bất an, hành động tập thể và tổ chức vận động ở cấp cơ sở vẫn lặng lẽ tỏa sáng như ánh lửa ấm giữa đêm dài, không chỉ giúp xua tan tuyệt vọng mà còn khơi lên hy vọng thay đổi và tiến bộ. Chính ánh lửa đó đã thôi thúc những người bất đồng với Tổng thống Donald Trump xuống đường. Các cuộc biểu tình trong suốt mùa xuân và mùa hè đã cho thấy sự phản đối mạnh mẽ (không chỉ riêng ở Hoa Kỳ mà còn lan ra toàn thế giới) đối với nghị trình của chính quyền Trump, đặc biệt là các nỗ lực nhằm thâu tóm quyền lực và phá hoại các cơ quan và dịch vụ công trọng yếu. Hậu quả từ các chính sách ấy chủ yếu đè nặng lên các cộng đồng vốn đã chịu nhiều thiệt thòi: di dân, người nghèo, người da màu, phụ nữ và cộng đồng LGBTQIA+.
Khi ngày kỷ niệm 250 năm Tuyên Dương Độc Lập đang đến gần, Hoa Kỳ đứng trước một câu hỏi quan trọng: Liệu một trong những giá trị cốt lõi nhất của bản Tuyên Dương – rằng chính phủ phải hoạt động minh bạch, có trách nhiệm trước nhân dân và tuân thủ pháp luật – có còn được giữ vững? Trước khi bản Tuyên Dương Độc Lập ra đời, các nhà lập quốc đã lên án việc chính quyền Vua George III chà đạp nhân quyền của các thuộc địa. Không chỉ vậy, họ còn đưa nguyên tắc bảo vệ vào Hiến pháp sau này, thông qua khái niệm gọi là “quyền được xét xử công bằng” (due process).


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.