Hôm nay,  

Gặp Gỡ Cuối Năm

25/04/200200:00:00(Xem: 5070)
Nhà văn Guenter Grass, khi Đức quốc còn bị chia đôi - bởi vì tên ông luôn được nhắc tới, ròng rã trên hai thập kỷ - ông vẫn thường tự hỏi, tại sao không chia giải thưởng Nobel, cho hai nhà văn thuộc hai miền của một đất nước bị chia cắt, cho Christa Wolf, và tôi" Và, "hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc…", khi mấy ông Hàn Thụy điển đóng kín cửa phòng lo tranh cãi, bàn bạc, Guenter Grass bảo cô thư ký, họ lại ỳ ra thôi, và chúng ta sẽ có một mùa thu tuyệt vời!

Khi nghe tin được giải, ông nhắc lại đề nghị, nhưng mấy ông Hàn lắc đầu.

Và ông kết luận: may mắn thay, cả hai chúng tôi đều sống sót.

Grass cho rằng, cũng như ông, Wolf, bằng tác phẩm đã cố gắng ngăn chặn một sự "chia cắt vĩnh viễn" nước Đức. Tình bạn và sự kính mến giữa hai người, đã có từ nhiều năm. Nhân dịp sinh nhật thứ 70 của ông, Wolf đã viết thư chúc mừng, kể kỷ niệm, về cảm giác lúc nào cũng thấy ông hiện diện, nhưng không đâu bằng, ở Dantzig-Gdansk. "Bạn đã 70 tuổi rồi. Không có bạn, tôi không thể nào tưởng tượng ra được phong cảnh văn hóa Đức. Hãy cứ khỏe mạnh. Và hãy lấy cái ống vố ra khỏi miệng nhé!"

Theo Grass, sau chiến tranh và suốt chiến tranh lạnh, nước Đức bị tuyệt đối chia cắt về kinh tế, ý thức hệ, quân sự, nhưng hai nền văn chương, không bao giờ bị đứt đoạn. Trong bài phỏng vấn trên tờ Magazine Littéraire, sau khi được Nobel, ông nhớ lại những chuyến vượt bức tường qua Đông Bá Linh gặp bạn văn, trong những căn hộ ấm cúng, khi ra về trời đã khuya, vui như Tết, hồn thoáng chút hơi men, và tội nghiệp cho mấy tay mật vụ suốt buổi ở bên ngoài trời lạnh!

Người viết cứ luẩn quẩn với những điều Grass viết, nhân chuyến gặp gỡ ông bạn cũ Huỳnh Phan Anh, ở nơi xứ người. Bên chai rượu đỏ, tại sao chúng tôi không có quyền đi một đường cảm khái: may mắn thay, cả hai vẫn còn sống!

Nhưng gặp ở đâu, chứ ở Paris thì còn ca cẩm gì nữa!

Huỳnh Phan Anh, sau 1975, có vẻ như không gặp rắc rối gì nhiều với chế độ mới. Nhưng có lẽ đó chỉ là bề mặt của câu chuyện. Lần đầu tiên, anh cho biết, vợ và hai con gặp tai nạn khi vượt biển. Tôi đã được nghe, cũng chỉ có vậy, và anh cũng không nói thêm chi tiết, như chỉ muốn xác nhận một chuyện mà bất cứ một người dân Miền Nam nào cũng biết, cũng hiểu. Như chỉ muốn xác nhận, tao vẫn vậy, vẫn "dur" (cứng rắn), như ngày nào. Và anh quyết định cho cháu gái may mắn, không có mặt vào giờ chót ở chuyến trước, đi chuyến liền sau đó. Bà chị lớn hiện ở Mỹ, nhân dịp này đi cùng cháu gái qua Paris thăm anh. Tôi hỏi về cô em gái, tên Như, trong nhà gọi Bé. "Nó ở Đức. Cả nhà tao vẫn mến mày như ngày nào." Cô em, bây giờ đã có gia đình, vậy mà vẫn chưa quên, cái cảm giác sững sờ, khi nhờ bạn ông anh giải giùm một bài toán hắc búa. "Nó nói, chưa bao giờ gặp một người giỏi toán như vậy!"

Cô Bé này, học cùng lớp với "cô bé" của tôi, những năm đầu trung học. Anh bạn chắc vì thương tình, không nhắc chuyện, khi em anh đọc truyện tôi, về cái cảnh thất thểu chạy theo "cô bé" nơi cổng trường Đại Học Khoa Học...

"Nó đọc và khóc vùi! Đúng là cải lương!", anh kết luận, về văn chương của tôi!

Bạn cứ thử tưởng tượng, hai thằng bạn văn, người Việt, sau cuộc chiến 30 năm vui sao nước mắt lại trào, sau thống nhất 29 năm (lúc này trên tháp Eiffeil, là dòng chữ tiếng Pháp 59 ngày trước năm 2000), vậy mà muốn gặp nhau phải... hẹn hò ở Paris!

Nhờ hên thôi, anh nói. Qua mấy ngày gặp, anh vẫn còn "nắc nỏm", tao không thể tưởng tượng, có ngày lang thang ở Paris!

Anh cho biết, chỉ riêng năm vừa qua, có 10 đầu sách xuất bản, toàn là sách dịch. Tôi hỏi về tin, anh được nhà thơ Pháp Yves Bonnefoy, với tư cách cá nhân, bỏ tiền túi ra mời anh qua thăm Paris. (Anh có dịch một tuyển tập thơ của ông Tây này, xuất bản dưới dạng song ngữ). Anh nói, "lúy" có viết thư, gợi ý hai lần, nhưng tao không ưng (thấy ngại quá!). Chuyến đi này, là do một tay Tùy Viên Sách (Attaché du Livre) của Tòa Đại Sứ Pháp. Đề nghị lâu rồi, không đi được, không phải nhà nước ngăn cấm, mà vì không đào đâu ra tiền giấy máy bay. Cuối cùng người tùy viên tốt bụïng lại phải lo giùm thêm khoản này.

Huỳnh Phan Anh được học bổng đi Pháp ba tháng, nghiên cứu về "trường" (champ) dịch thuật. Nghe nói, giới dịch thuật "chính thức" trong nước có vẻ "bực" (hay nực") vì chuyện này. Nhưng đây là tại "thằng Tây" nó muốn cho ai thì cho chứ mắc mớ gì tới chuyện Nam Bắc kỳ, chia để trị, (văn sĩ) chính thống hay tề ngụy!

Lớp học trò chúng tôi, đa số biết Paris qua... Thanh Tịnh. Con đường tới Paris bắt đầu bằng cảnh: mẹ tôi âu yếm dẫn tay tôi trên con đường làng, tôi vẫn quen đi lại nhiều lần, nhưng lần này tôi thấy lạ. Con đường làng Việt Nam dẫn hai đứa chúng tôi tới những lối đi nơi vườn Lục Xâm Bảo, và bầu trời hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều, và trên không có những đám mây bàng bạc của Thanh Tịnh, bỗng lẫn vào bầu trời chập chùng Mùa Thu Paris, những chiếc lá vàng rơi trên những pho tượng trần, những bữa cơm tối ăn dưới ánh đèn... ôi chao, tôi lại thấy cảnh này, ở nơi vườn Bờ Rô Sài Gòn, những ngày quen cô bé...

Thanh Tịnh, là của thời con nít. Gần gụi hơn, là những câu thơ, thí dụ như "hãy cho anh một tí Paris, để anh làm thi sĩ...", (mô phỏng thơ Thanh Tâm Tuyền), hoặc "ga Lyon đèn vàng..." của Cung Trầm Tưởng.... hay là những trang nhật ký của Roquentin, mùi củi ướt tại một xưởng thợ, và câu văn khép lại cuốn Buồn Nôn của Sartre: Ngày mai trời sẽ mưa trên thành phố Bouville. Chúng đã khiến cho những chiếc lá của Anatole France trên một con đường làng Việt Nam đột ngột sống lại, cùng với thời mới lớn của lũ chúng tôi.

Không biết Thanh Tâm Tuyền đã làm một chuyến ngao du "Về Miền Tây" nào chưa, nhưng thay vì một tí Paris, là những dòng thơ ở giữa chiến tranh và trại tù. Còn nhớ, những ngày đài phát thanh Sài Gòn, bằng một cái giọng thật ư là đều đều, đọc danh sách những người phải trình diện, tôi bảo ông, bữa trước có nghe tên một người bạn của anh..., ông vỗ đùi đánh đét, thế là sắp tới tao rồi! Thanh Tâm Tuyền trước đó đã mất hai năm lính, vừa được giải ngũ ít lâu thì xẩy ra vụ Mậu Thân, và sau đó là lệnh Tổng Động Viên. Hồi còn la cà ở Quán Cái Chùa, đường Tự Do Sài Gòn, tôi và Huỳnh Phan Anh hay được dịp ngồi chung bàn với ông. Huỳnh Phan Anh cho biết, sau khi ông đi cải tạo về, có gặp, và một lần có kéo ông tới một "căng-tin", làm vài hơi bia. Trong số những cô gái phục vụ, có một cô rất mê thơ Thanh Tâm Tuyền. Bài hát tủ của cô: Lệ Đá Xanh. Cô bé thật tình muốn trổ tài trước nhà thơ, nhưng ông lắc đầu. Tôi nghĩ thầm: sau một trận tù dài như thế, vừa mới về nhà gặp vợ gặp con chưa hoàn hồn làm sao mà Giang Châu Tư Mã đầm đìa áo xanh cho được!

Chưa hoàn hồn... tôi lại nhớ tới một "tục lệ" của người dân ngoài Bắc, mà tôi đã được trải qua. Lần đó, mê chơi bi, hòn bi lăn mãi tít vô gầm chiếc rương lớn chứa thóc. Lui cui bò vô, hai chiếc mễ gỗ quá mục, sụp xuống, chiếc rương thóc đè lên thằng nhỏ. Người lớn lôi ra, thằng bé ngơ ngác, mắt lé xệch. Mấy người lớn tuổi nói: nắm cho nó mấy nắm cơm đi, để chuộc lại ba hồn bẩy vía.

Lại nói chuyện dịch. Huỳnh Phan Anh "khoe", nếu mày về Sài Gòn, vào tiệm sách, là thấy sách của tao bầy la liệt...

Anh dịch khủng khiếp thật! Trước 1975, cuốn "đắc ý" của anh, có lẽ là "Ca Ngợi Triết Học", dịch Merleau-Ponty, một trong hai người chủ trương tờ Thời Mới. Sartre ca ngợi bạn, trong khi ông còn mê mải với hiện sinh, Merleau-Ponty đã bước qua hiện tượng luận. Ông còn là một trong những chuyên gia "nghiêm túc" về chủ nghĩa Cộng Sản, và đã tìm ra những mắt xích dễ gẫy của nó. Không hiểu vào những năm 1960, trước bóng ma của một chiến thắng của Miền Bắc, anh bạn tôi khi dịch Ca Ngợi Triết Học, có nghĩ tới những dòng của Merleau-Ponty, trong cuốn Ký Hiệu (Signes, 1960): "Chủ nghĩa Mác-xít tìm thấy trong lịch sử, những thảm kịch trừu tượng về Hữu thể và Hư vô và đặt vào đó, một gánh nặng siêu hình lớn lao; điều này đúng, vì nó nghĩ tới bộ khung, tới kiến trúc tính của lịch sử, tới sự xen lấn, bổ sung, giữa vật chất và tinh thần, giữa con người và thiên nhiên, giữa hiện hữu và ý thức, trong khi triết học chỉ đưa ra một bài toán đại số, và bản thiết kế. Thu tóm toàn bộ nguồn gốc nhân loại, chính trị cách mạng đi qua trung tâm siêu hình này. Nhưng trong thời kỳ gần đây, chính trị chỉ là thủ đoạn, một chuỗi đứt đoạn những hành động, những giai đoạn không có ngày mai, và người ta 'buộc' vào đó tất cả những hình thức của tinh thần và cuộc sống. Thay vì nối kết những đức hạnh, triết học và chính trị chỉ trao đổi cho nhau những cái xấu: người ta có, một thực hành quỉ quyệt và một tư tưởng mê tín". Là một người ở trong nước, chắc chắn là anh có thẩm quyền hơn tôi, để nói về quỉ quyệt và mê tín.

(Anh than, về chuyện giới viết lách ở trong nước coi anh là một trong những người sống bằng ngòi bút: cần tiền quá!)


Trong một bài viết cho tờ Việt ở Úc, người viết có đưa đề nghị, cái dịch là cái mới, và cái mới nằm trong cách người viết, người đọc trân trọng một bản văn, khi nó được chuyển dịch ra khỏi nơi chốn, thời gian "thực" của nó, thí dụ như dòng văn chương hải ngoại chẳng hạn, vốn được viết bởi những người Việt phải từ bỏ quê hương, ở khắp nơi trên mặt đất, tụ lại với nhau qua "bản văn tiếng Việt". Nhìn theo viễn tượng đó, với riêng tôi, dịch thuật là... cánh cửa mở vào thiên niên kỷ đối với chúng ta.

Gerald. L. Bruns, trong bài viết "On Difficulty: Steiner, Heidegger, and Paul Celan" (1) - kinh nghiệm của cả ba đều liên quan tới Nazi, tới Lò Thiêu - cho rằng chỉ những kẻ bị tống xuất, bị ruồng bỏ (outcasts), những kẻ lang thang vất vưởng (wanderers), nếu không muốn nói, chỉ những thi sĩ, mới có thể trở thành những dịch giả số một. Tại sao vậy"

Tác giả đặt câu hỏi: Điều gì làm cho một bản văn (hay bất cứ một cái gì khác) cưỡng lại mọi cố gắng nhằm hiểu nó" Theo ông, đây là kinh nghiệm cơ bản đối với người dịch. Và là một kinh nghiệm vừa mang tính đạo hạnh, vừa bỏ ngỏ: "anh này (one) cố gắng lột trần anh kia (the other), bằng một ngôn ngữ, ở bên trong khung văn hóa riêng, nhưng anh kia không thể nào bị biến thành đối vật theo kiểu này, bởi vì anh (cũng lại) thuộc về thế giới riêng, và không thể bị bứng lên mà không phải dùng tới vũ lực. Cổ đại La-tinh hiểu điều này, khi gắn dịch với chiến thắng những thành phố, bắt nô lệ, và cướp bóc của cải."

"Nói ngắn gọn, đây là sự thành lập đế quốc."

Nhưng dịch có những hậu quả không thể kiểm soát được. Gần mực thì đen, chơi dao có ngày đứt tay: người dịch phải đối đầu với một điều vượt ra ngoài căn cước, bản sắc riêng. Hậu quả là, theo Steiner, "cái kia" (the otherness) chui vào bên trong chúng ta, làm cho chúng ta thành kẻ khác.... Chẳng thể có dịch thuật, ngoại trừ dưới điều kiện khủng hoảng tri thức luận (There can be no translation except under conditions of epistemological crisis). Nhìn như thế mới thấy một sự thực cay đắng chua chát: chỉ mấy anh/mấy chị xẩy nhà ra thất thổ, mất quê hương, sống đầu đường xó chợ, mất mẹ căn cước mẹ đẻ, mới hiểu thế nào là dịch thuật: chiếm tiếng người làm tiếng mình!

Trường hợp dịch của ông bạn tôi, có thể giải thích, bằng nhận định của G. Grass. Phản ứng trước hiện tượng "không giờ" của văn chương (hãy chui vào tháp ngà, hãy nói chuyêän cái mỹ, hãy làm đao phủ thiền....), ông tuyên bố: kẻ nào muốn thống nhất nước Đức, kẻ ấy phải ôm riết lấy (lò thiêu) Auschwitz.

Điều này giải thích tại sao, trong cuốn sách vừa mới xuất bản tại Việt Nam ("Tao đi đây, phải nhắn họ mang tiền nhuận bút tới cho bà xã ở nhà"), "Không gian, Khoảnh khắc Văn chương" (Tiểu luận-Phê bình, người biên tập Lại Nguyên Ân, nhà xb Hội Nhà Văn, 1999), không nói tới những tác giả đã qua đời như Tản Đà, Nhất Linh, Đinh Hùng, giữa những tên tuổi như J.M.G. Clezio, Claude Simon, Heinrich Boll... bạn tôi đặt vào, chỉ một tác giả Việt Nam, "mới": Phan Thị Vàng Anh.

Đây là một cuốn sách thâu gom những bài viết phê bình, tiểu luận, rải rác trước và sau 1975. Huỳnh Phan Anh cho biết, cũng phải nhờ một nhà phê bình thuộc diện nhà nước, cuốn sách mới ra được: "Mày thấy không, một tác giả chuyên về 'hư vô' như tao, sống giữa một xã hội 'không hư vô' một chút nào, với những bài viết từ trước 1975, đấy không phải là một dấu hiệu đáng mừng của 'văn chương' hay sao""

Một dấu hiệu đáng mừng, liệu người ta có thể nhận ra nó, khi đọc Phan Thị Vàng Anh"

Một trùng hợp khá thú vị: Đọc Vàng Anh, tôi cũng liên tưởng tới Francoise Sagan, nhưng không hẳn như Huỳnh Phan Anh nhận xét: "Họ (những nhân vật trẻ tuổi của Phan thị Vàng Anh) đáng yêu hơn những nhân vật của Sagan mà người đọc có thể liên tưởng tới khi đọc Vàng Anh bởi sự buồn nản; sự nổi loạn không đẩy họ tới những buông thả, phá phách, suồng sã, mù quáng một cách vô duyên cớ, đặc trưng của một tuổi trẻ nào khác, ở một nơi nào khác."

Phan Thị Vàng Anh, theo tôi, cũng nằm trong hiện tượng "không giờ" của văn chương. Ở đây, còn có sự nuông chiều (một trong những hậu duệ, của "con cưng" chế độ). Có sự õng ẹo, với văn chương chữ nghĩa. Với tuổi trẻ. Với cái nhìn xuống, khi bóng gió xa xôi, về nỗi cơ cực của những con người quanh "cô bé". Cô bé đôi lúc cũng đăm chiêu về phận người, theo kiểu "Buồn Ơi, Chào mi!" của Sagan.

Khi "Buồn ơi…" xuất hiện tại Pháp, người ta chào đón nó như một loài chim quí. Với Vàng Anh, một loài chim quí, để nuôi trong lồng, như một dấu hiệu đẹp đẽ về một chế độ không đẹp đẽ. Giới phê bình Tây Phương cũng đã nhận ra điều này với bao nhiêu tác phẩm của Sagan: trong bao nhiêu năm, người Pháp đã giữ riêng cho họ, một người tình.

Nhưng xã hội Tây Phương (nước Pháp), khi Sagan mô tả, là những năm kinh tế khá ổn định, và giới tính đang được mùa.

Có còn hơn không. Khi Sagan được đón nhận, "như một con chim hiếm", người ta biết, cái khí hậu văn chương hiện sinh cần một thái độ đạo đức-phi đạo đức như vậy. Cũng cần phải phân biệt, phi đạo đức khác với vô đạo đức. Phi đạo đức, một cách nào đó, là treo lửng đạo đức bên trên ngòi bút. Với Vàng Anh, độc giả trong nước có một cô bé õng ẹo, giữa một đám đao phủ đang ngồi thiền là thế hệ cha chú của cô. Vậy cũng là dấu hiệu đáng mừng rồi! Huỳnh Phan Anh đã nhận ra điều này, nhưng ông nói, với một sự châm chước, của một người đã lớn tuổi: "Có lẽ họ nhẫn tâm với chính họ hơn là với cuộc sống".

[Vàng Anh là con gái nhà thơ Chế Lan Viên. Nghe nói, những bản viết đầu tay của cô là do bố sửa sang, đánh bóng lại. Một anh bạn cho biết, trong một truyện ngắn viết về người bố, sau khi mất được hỏa thiêu, nhìn hũ tro cốt, "cái còn lại" của một đời người cúc cung với chế độ, cô cay đắng hỏi chủ nghĩa, hỏi chế độ, hỏi đời, hỏi chính mình, "Chỉ có thế thôi à""]

(http://www.saomai.org/~tinvan/unicode/index.html )

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
✱ CIA: Thiếu tướng Phan Văn Phú, đã gặp TT Thiệu ngày hôm qua (16.3.1975) và thất bại trong nỗ lực thuyết phục tổng thống gửi thêm viện binh đến cao nguyên miền Trung. ✱ Tướng Phú: Tổng Thống Thiệu đã chà đạp danh dự tôi khi ông công khai đổ lỗi cho tôi về chuyện mất Cao nguyên Trung phần ✱ Tướng Trưởng: Lệnh của Tổng Thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân Đoàn I vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân Đoàn II vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc lộ 22 làm ranh giới. ✱ TT Thiệu: Vì thiếu đạn dược, chúng tôi phải kiếm từng viên đạn. Chúng tôi đã mất nhiều xe tăng và đại bác. Hoa Kỳ không thực hiện những thay thế như đã cam kết - vì thế, chiến cụ của chúng ta đã bị giảm dần: đó là lý do tại sao chúng ta thua cuộc.
Quá trình hoạt động căn bản của trí óc luân chuyển trong bốn giai đoạn: tiền ý thức (preconscious), ý thức (conscious), tiềm thức (subconscious), và vô thức (unconscious). Từ ngữ ‘ý thức’ có nguồn gốc từ ngôn ngữ Latin ‘biết’ và ‘nhận thức’. Ý thức là biết về nhận thức sự tồn tại và suy nghĩ của một người. Theo định nghĩa của tâm lý gia Sigmund Freud, ý thức chứa tất cả những suy nghĩ, ký ức, cảm xúc và mong muốn mà chúng ta nhận thức được tại bất kỳ thời điểm nào. Đây là quá trình xử lý tinh thần mà chúng ta có thể suy nghĩ và nói về nó một cách hợp lý.
Cựu Tổng Thống Jimmy Carter (Dân Chủ) nhậm chức vào ngày 20-1-1977, hai năm sau khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Người tiền nhiệm của ông là cố Tổng Thống Gerald Ford đã chứng kiến Saigon thất thủ trong cơn hỗn loạn. Carter là người trách nhiệm lèo lái nước Mỹ thời hậu chiến trong khi chiến tranh lạnh sôi động khắp nơi trên thế giới. Sau Việt Nam, năm nước khác lần lượt trở thành cộng sản, gia nhập vào trục Mặc Tư Khoa – Băc Kinh, như Lào (1975), Campuchia (1975), Angola (1975), Nicaragua (1979), Grenada (1979). Tuy nhiên, đợt bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản sau chiến tranh Việt Nam ít hơn đợt một với 12 nước đi theo XHCN xẩy ra sau khi Thế Chiến II chấm dứt.
Gửi ngót 20 triệu cư dân ĐBSCL không được quyền có tiếng nói Gửi Nhóm Bạn Cửu Long Đây là bài thứ 2 viết về 48 năm cải tạo Đồng Bằng Sông Cửu Long của nhà nước CS Việt Nam đã và đang phá huỷ cả một vùng châu thổ phì nhiêu nhất Châu Á và cũng là của thế giới, và làm nghèo cả một đất nước ra sao.
Vùng Đông Nam Á có 11 quốc gia bao gồm hơn 550 triệu dân. Mặc dù có sự đa dạng lớn về ngôn ngữ và văn hóa, khu vực này có đặc điểm là vị trí của phụ nữ tương đối thuận lợi so với các nước láng giềng Đông Á hoặc Nam Á. Điều này từng được giải thích bởi một số yếu tố: theo truyền thống, quan hệ họ hàng được biểu hiện thông qua cả dòng bên mẹ và dòng bên cha; con gái không phải là gánh nặng tài chính vì tục lệ nhà trai phải trả tiền hay hiện vật cho nhà gái lúc cưới (bride price) (2); một cặp vợ chồng thường hay sống với hoặc gần cha mẹ của người vợ; phụ nữ có vai trò nổi bật trong các nghi lễ bản địa; lao động của họ rất cần thiết trong lĩnh vực nông nghiệp, và họ chiếm lĩnh các chợ địa phương
Năm mươi lăm năm trôi qua, sự thật về cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 đã được phơi bày ra ánh sáng bởi rất nhiều tài liệu giá trị, đúng đắn và đáng tin cậy, gồm hồ sơ mật của CIA, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Nhưng, chính quyền CSVN cho đến nay vẫn không dám công khai thừa nhận thất bại và sai lầm của họ trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân, mà trong đó họ đã lợi dụng ngày Tết cổ truyền thiêng liêng nhất của dân tộc để mở các cuộc tấn công và giết hại thường dân vô tội, như trường hợp thảm sát hàng ngàn sinh mạng tại Huế. Tại sao? Một chế độ không dám nhìn nhận sự thật như thế, dù đó là sự thật lịch sử không thể phủ nhận, thì có phải là một chế độ đáng để người dân tin cậy chăng? Xin cầu nguyện cho tất cả những nạn nhân của biến cố Tết Mậu Thân được siêu thoát.
✱ HĐ Tham Mưu Trưởng LQ/JCS: Tổng thống Kennedy và Johnson đều không tin tưởng vào các cố vấn quân sự của họ, vì cho rằng các tướng lĩnh và đô đốc thiếu sự tinh tế về mặt chính trị - Giới quân sự bất bình vì "coi lực lượng quân sự là công cụ để thương lượng về mặt ngoại giao". ✱ McNamara: Một khi bổ sung quân số sẽ tăng thêm chi phí về nhân sự, về chính trị và kinh tế do cuộc chiến gây ra, làm suy giảm khả năng của quốc gia một khi cuộc chiến kéo dài. ✱ JCS: McNamara chủ trương tìm kiếm một giải pháp hòa đàm về cuộc chiến - thúc giục Hà Nội đi đến bàn đàm phán hòa bình...
Vậy “bánh Dày” phải có nghĩa là “bánh Trắng”, có lẽ dễ hiểu hơn là dày phản nghĩa với mỏng hay dày vò như vài người đã cắt nghĩa. Từ đây, phải chăng “Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên” của Nguyễn Du tả nét đẹp thân thể nàng Kiều cũng có nghĩa là trắng. Nét đẹp này hoàn toàn phù hợp thẩm mỹ quan của Việt Nam xưa nay. Người phụ nữ đẹp phải có nước da trắng. Nó vừa đẹp, vừa sang vì không phải lam lũ dưới mưa nắng...
Tết Nguyên Đán (Tết Cả) là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới. Tết còn là dịp để mọi người Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan hệ đạo lý (ăn quả nhờ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng ...
Theo bản Hán dịch của ngài Cưu-ma-la-thập, Kinh Pháp Hoa có 7 quyển gồm 28 phẩm. Trong nội dung Kinh, Đức Phật dạy về mục tiêu xuất thế của Ngài là để “khai thị ngộ nhập Phật tri kiến” cho chúng sinh. Cho nên, việc Ngài nói pháp Ba Thừa (Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát Thừa) chỉ là phương tiện để dẫn dắt chúng sinh theo căn cơ nhưng mục tiêu tối hậu là Nhất Thừa, tức là thành Phật như Ngài...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.