Hôm nay,  

Chim Thuyết Pháp

14/06/200600:00:00(Xem: 2403)

Đất lành, chim đậu.

Đất vườn sau nhà tôi chẳng biết có lành không nhưng rất nhiều chim thăm viếng. Từ giống hummingbird nhỏ xíu, giống sẻ hiền lành, tới oanh, yến và cả những con cu đất lông đen mượt, lớn hơn những loài kia nhưng lại nhát như cáy! Không biết ở những nơi khác chúng có đánh nhau hay không nhưng khi đến vườn sau nhà tôi thì tuy khác giống, chúng đều có vẻ rất “biết điều”. Con nào hót cứ hót, con nào đậu bên cạnh rỉa lông cứ rỉa lông. Con đang hót không bất mãn “Tôi hót hay như thế, anh không biết thưởng thức mà đứng rỉa lông! Đàn gẩy tai trâu hả"”. Ngược lại, con đang rỉa lông cũng không phiền “Tôi đang bận rộn chải đầu rũ áo, anh đi chỗ khác hát hò được không"”

Khi tôi rải cơm nguội trên bờ tường thì đám sẻ bao giờ cũng xà xuống trước nhất. Chúng rất lịch sự, con tới trước ăn trước, con tới sau ăn sau, kiên nhẫn xếp hàng như người Mỹ vậy. Oanh và yến thì chê cơm, chờ tôi rắc hột ở vườn rau, bên hông hồ sen. Chỉ có đám cu đất là ăn tạp, bánh trái gì còn dư tôi thảy ra bãi cỏ hay trên mái nhà là chúng gọi nhau thanh toán ngay.

Đất nơi đây không chỉ lành với chim mà có lẽ lành cả với tôi vì từ khi lưu lạc xứ người, căn nhà này là nơi tôi “đậu” lâu nhất, gần hai mươi năm rồi. Cứ cho như thế là lành đi! Vì “đậu” lâu nên có những hàng cây trồng từ hột, vừa nhú mầm lên khỏi mặt đất, chúng đã nhìn thấy tôi. Chúng tôi thấy nhau, tưởng như tình cờ (nhưng vạn hữu mầu nhiệm này làm gì có tình cờ, phải từ những duyên ngầm mới thấy được bằng mắt ưa phân biệt, bằng tâm ưa lý luận).

Không chỉ những hàng cây mà những bờ cỏ, những viên sỏi, những ụ đất ...... Tôi biết chúng và chúng biết tôi rất rõ, có khi biết hơn cả những người tưởng là thân yêu, ruột thịt! Nghe có vẻ hơi cay đắng nhưng bình tâm một chút thì thấy sự thật này rất khách quan. Vì sao ư" Vì giữa tôi và chim muông, cây cỏ có đòi hỏi gì nhau đâu! Nghĩ đến nhau thì tử tế với nhau, không thì cũng chẳng ai trách ai! Vì không đòi hỏi nhau, ta mới có nhau một cách nhẹ nhàng hơn, dễ chịu hơn, thân thiện hơn.

Thế giới của chúng tôi ở nơi “đất lành” này, vì thế mà tương đối êm đềm.

Nơi đây, tôi thích mùa hè hơn mùa đông vì nắng ấm tôi có thể thơ thẩn ngoài vườn nhiều hơn trong nhà. Thường thì buổi sáng, rải thức ăn cho chim và rắc bỏng cho cá xong, tôi đãi mình một ly cà phê hoặc trà xanh; rồi ôm một, trong những cuốn sách đang đọc dở (vì tật tham lam, lúc nào tôi cũng có những cuốn sách đang đọc dở) ra ghế xích đu dưới gốc bưởi ngồi đọc. Thế là đủ thấy Thiên Thai, cần gì phải “lạc lối” mới tới được Thiên Thai như hai ông Lưu Nguyễn vớ vẩn nào đó!

Cũng từ những sinh hoạt thầm lặng với vạn hữu nơi đất lành này mà thỉnh thoảng tôi may mắn bắt gặp những “tia chớp cảm xúc”. Tôi gọi là những tia chớp, vì cảm xúc khi có, đều tới rất mạnh và qua rất nhanh. Sau đó, tôi thường ngồi thừ ra, chảy nước mắt vì cảm động. Chẳng hạn như, trong Kinh A Di Đà, tôi đã tụng ngàn lần câu:

“ Phục thứ Xá Lợi Phất! Bỉ quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu, tạp sắc chi điểu: Bạch-hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng chi điểu, thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm, kỳ âm diễn xướng: ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần, như thị đẳng pháp, kỳ độ chúng sanh, văn thị âm dĩ giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”

Vì tụng nhiều lần, tôi đã thuộc lòng. Chính sự thuộc lòng này là con dao hai lưỡi; nghĩa là thuộc, nên miệng nhanh nhẹn đọc lên mà tâm chưa đọc kịp! Nếu tôi sớm đọc được bằng tâm thì ngay đoạn kinh này cũng đã quá đủ để kẻ vô minh như tôi nhận ra là tôi đang được sống trong cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Ngay nơi đây, ngay nơi “đất lành chim đậu” này chứ có phải phương Đông, Tây, Nam, Bắc nào đâu!

Sau khi làm lễ cầu siệu tuần thứ tư cho Mẹ, từ chùa về, tôi ra vườn ngồi.

Không đọc sách,

Không uống trà.

Chỉ ngồi im như pho tượng.

Trong im lắng cả thân và tâm ấy, tôi nghe thấy tiếng chim. Tiếng chim ư" Chắc chắn là thế. Tôi đã từng nghe tiếng chúng gần hai mươi năm nay rồi mà. Chúng đang trên cành bưởi, cành trúc kia! Những chiếc mỏ nhỏ xíu đang ríu rít làm lay động lá trúc, làm ngạt ngào hương bưởi. Hôm nay chúng hót rất dịu dàng, trầm bổng như một ban hợp xướng đang chăm chú theo một giòng nhạc nào. Rồi tiếng chúng bỗng nhỏ dần .... và ngưng. Không gian bỗng vút lên âm thanh trong trẻo và réo rắt của giòng nhạc khác! A! đó là cặp chim yến vừa ghé cánh trên khóm quỳnh lan. Chúng chờ đám sẻ im tiếng mới cất giọng hót, hay là tất cả đã cùng nhau tập dượt bản hợp xướng này" Bản hợp xướng này là gì mà có thể khiến người-thính-giả-tình- cờ cảm thấy như có giòng suối mật chảy lan trên từng tế bào" Ôi, thật là ngọt ngào! Thật là trong! Thật là mát! Thật là kỳ diệu! Thật là từ bi! Thật là ... bất khả tư nghì! Thính giả mơ màng nghe thấy đâu đây:

“Này Xá Lợi Phất, ở nước Cực Lạc của Phật A Di Đà thường có những loài chim mầu sắc xinh đẹp như Hạc-trắng, Khổng-tước, Anh-võ, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng. Những giống chim đó ngày đêm sáu thời, thường hót lên tiếng hót thanh tao, diễn xướng các pháp môn như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần v...v... khiến người nghe được những âm thanh ấy đều khởi lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng”.

Đó là đoạn văn kinh chữ Hán mà tôi đã thuộc lòng, đã tụng bằng miệng mà chưa từng bằng tâm. Giờ phút này, tâm tôi đang khởi lên rọ ràng từng nét chữ Việt.

Từ đâu vậy"

Ôi, cám ơn MẸ.

Có phải Mẹ vừa sàng sẩy những ưu phiền, buồn bã trong con, để con nghe được tiếng CHIM THUYẾT PHÁP"

Vẫn bầy chim nơi vườn sau.

Vẫn những tiếng hót ấy

Vẫn lá trúc lay.

Vẫn bông hoa nở.

Nhưng Mẹ ơi, bằng tâm không ô nhiễm, con đang ở đất Phật.

Chim đang thuyết Pháp.

Gió đang hòa nhạc.

Con chắc chắn đang được nghe chim thuyết Pháp vì chỉ những lời pháp diệu âm mới chan hòa ánh sáng Vô Lượng Quang và cho con những lạc thọ vô biên này. Mẹ đã từng dạy con “Nếu biết nhìn sâu sắc thì vạn hữu, muôn loài đều có ứng thân và pháp thân. Ứng thân là thân hiện hữu nơi cõi ta-bà, nhin thấy được bằng nhãn căn. Pháp thân là biểu hiện nhiệm mầu mà khi tâm đạt tới thể trong sáng nguyên thủy thì ta sẽ cảm nhận được. Sự cảm nhận này là kinh nghiệm của từng cá nhân, không ai diễn tả lại cho ai mà cảm được”

Ôi, Mẹ nói khó hiểu thế, con nghe rồi, và cũng tưởng đã quên rồi. Có ngờ đâu, lời Mẹ là những hạt bồ-đề gieo xuống ruộng-tâm-con đầy cỏ dại. Một lúc nào tỉnh ngộ, gắng công khai quang thì hạt lành ấy có cơ duyên nẩy mầm, phải không Mẹ"

Tôi thầm hứa với Mẹ là tôi sẽ gắng, để sau bốn mươi chín ngày, Mẹ tôi có thể tạm yên tâm về đứa con vô minh này, mà siêu thoát.

Hỡi bầy chim thân yêu ngoài vườn sau, các bạn không cần phải mang những tên gọi đẹp đẽ như Bạch-hạc, Khổng-tước, Anh-vũ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già ..... nhưng tôi cũng đã nghe được các bạn thuyết pháp rồi. Còn các bạn, có cảm nhận được sự biết ơn của tôi không" Ồ, tôi lại hỏi một câu vô minh nữa! Vạn hữu mênh mông, các bạn có cánh, tôi có chân và chúng ta cùng có tự do. Nếu không thuận hòa, giao cảm được với nhau thì ai trói buộc chúng ta vẫn ở cùng nhau chứ! Sự giao cảm này còn gì khác hơn là điều chúng ta đã từng cùng nghe lời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên thuyết trong Pháp-hội Liên-Trì:

“Xá Lợi Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ”.

Câu kinh đó, ngôn ngữ nước tôi dịch là thế này: “Xá Lợi Phất! Vì thấy được sự ích lơi lớn lao khi sanh về cõi nước Cực Lạc nên nay ta bảo quý vị rằng, những ai đang nghe ta nói đây, hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước ấy”.

Còn tiếng của giống chim các bạn thì dịch ra sao" Các bạn cất tiếng đi, thế nào tôi cũng nghe và hiểu được mà.

Diệu Trân

(Chớm thu 2006)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiều ngày 31-5- 2006, đang theo dõi cuộc họp của Quốc Hội bàn về việc chống tham nhũng trong bộ máy đảng và chính quyền, được tiếp hai ông bạn đến thăm. Hai ông bạn đưa cho tôi một bản vi tính có cả hình của ông Nguyễn Văn Thuận, bí thư thành uỷ, chủ tịch HĐND TP Hải Phòng.
Thông minh xinh đẹp, nổi tiếng trong số dân oan khiếu kiện, đó là chị Đỗ thị Minh Hằng (số 1 Trại Nhãn Ô chợ Dừa Hà Nội). Chị là người đã từng viết đơn tố cáo quan chức, cán bộ cộng sản ăn bẩn, ăn cả xác người chết sau cái chết của
Hình ảnh những bến đò, những sân ga, gợi cho chúng ta sự linh động của đến, đi, chia tay và hội ngộ, khởi hành và điểm tới, tùy theo định hướng của từng đối tượng. Suốt chặng đường đời, đã bao lần lữ khách đứng bên sông, đợi bóng một con đò, lòng bâng khuâng tưởng về nơi sẽ tới, người sẽ gặp" Hay còi tầu giục giã sân ga
Buổi sáng, đi mua vật liệu về làm cái kệ sách, gặp một bà Mỹ ở cửa Home Depot cũng đang tiến vào. Bất ngờ, bà Mỹ quay qua, mỉm cười: "Anh đang ước gì cho ngày Lễ Cha hôm nay"" Tôi hơi sững người, chưa kịp trả lời, bà lại tiếp: "Chắc anh ước một cái tủ lạnh mới" Hay một cái máy ảnh thật hiện đại"" Tôi cười đáp lời: "Tôi chỉ
Rừng là một tên tuổi quen thuộc trong giới văn nghệ và anh được nhắc đến như là một hoạ sĩ hơn là một nhà văn hay nhà thơ, mặc dù anh cũng đã góp mặt trong văn học một số tác phẩm thơ
Vào ngày thứ năm, tiền đồn nhộn nhịp này được đại bác howitzers 105 ly bảo vệ cùng với các xạ thủ hạng chiến với bức tường cát bao quanh. Đó là một căn cứ được dựng lên nằm giữa, chẳng liên lạc với nơi nào cả để yểm trợ một cuộc tiền đánh phiến quân Taliban đang quậy tại phía nam Afgahnistan
Theo báo quốc nội, tại miền Trung, có lễ rước Mục Đồng, lễ hội dành cho trẻ chăn trâu, ngày xưa được tổ chức ở làng Phong Lệ, xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, nguyên thuộc địa bàn tỉnh Quảng Nam, nay thuộc thành phố Đà Nẵng. Theo cụ Ngô Tấn Nhã, là "lão làng" của Phong Lệ, tuổi đã trên 90, thì ngày trước, theo lệ cứ đến các 
Sáng 31-5-2006, tôi từ Giáo xứ An Bằng lên Huế. Khi ngang qua Nhà thờ Phù Lương, thấy ở cổng Nhà thờ tụ họp rất đông người, đa số mặc sắc phục xanh. Tôi đi tiếp lên Huế. Lúc 10g30, trên đường về, tôi ghé thăm cha xứ Phù Lương. Không ngờ một biến cố tệ hại đã xảy ra tại cổng nhà thờ. Xin được tường thuật cùng bà con trong
Trong Chuyện Kể Năm 2000, Bùi Ngọc Tấn dành nhiều trang để viết về những người bạn tù, được phóng thích cùng khoảng thời gian với ông: Già Đô, Giang, Dự, Min, Dần... Họ đều không có hộ khẩu, không có thân nhân để nương tựa, và vô phương kiếm được một việc làm nên phải đi ăn xin, trộm cắp hay móc túi. Những nhân vật này
Cái đó còn tùy ở định nghĩa ‘vĩnh viễn’ và ‘bình thường’. Douglas "Pete" Peterson không là một chính khách Mỹ có ác cảm với Việt Nam. Ngược lại, ông là vị Đại sứ Mỹ đầu tiên nhậm chức ở Hà Nội sau khi hai nước tái lập quan hệ ngoại giao năm 1995, và cùng với bà vợ - một người Úc gốc Việt


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.