Hôm nay,  

Khách Trần

21/08/200600:00:00(Xem: 4184)

Khách ghé quán trọ, nghỉ một đêm hay lưu tạm dăm ba bữa, rồi khách cũng đi. Người chủ quán không di chuyển, vẫn ở đó, nhận diện rõ ràng từng người khách đến và đi. Người chủ quán rất bình an, thanh thản như thế, trước khi khách đến cũng như sau khi khách đi. Người khách này ra đi, có thể, người khách khác lại ghé, rồi cũng lại đi. Chủ quán chẳng vì người trước hay kẻ sau mà di chuyển.

Hạnh phúc hay đau khổ, giầu nghèo hay sang hèn đều là khách trần, đến rồi đi.

Bản Tâm ta là chủ quán, trụ trong an tịnh, không đến cũng không đi.

Khách trần đến rồi đi là sinh diệt.

Bản Tâm không xao động, không di chuyển là thường hằng.

 Tự thể của tâm là Không Tánh. Đó là tự tánh Bát Nhã, không trong không ngoài, không nhơ không sạch, không thêm không bớt ... Chỉ có giòng tương tục của tâm, khi xúc cảnh, khởi phân biệt mà bị nhận diện là có nhiễm ô phiền não hay không mà thôi. Khi tâm đạt được thể Không Tánh, tức là trụ được trong bản chất đích thực thì phiền não thế gian sẽ chỉ như những khách trần, như những hạt bụi luôn xô đẩy nhau, lao xao biến hoại trong hư không mà chẳng hề khiến hư không giao động.

Lý thì như thế nhưng thực tế không hẳn hoàn toàn là thế. Khi học đạo, chúng ta thường được quý minh sư nhắc nhở phải giữ ý buông lời, nắm lấy chủ ý để khi thực hành, khi va chạm, biết tùy cảnh huống mà quán xét, chớ như ngài Huệ Khả, vì chấp văn tự mà uổng phí bao năm đi tìm sự an tâm cho đến ngày gặp Tổ Đạt Ma mới chứng ngộ.

Cũng thế, chẳng phải trước mọi cảnh huống tâm đều biểu lộ tự tại mới là tâm trụ nơi Không Tánh. Trong Đại Trí Độ nói rằng Bồ Tát Thường Đề thực hành Đại Bi Tâm, tu tập Bát Nhã Ba La Mật rất thuần nhuyễn, uyên áo, nhưng nhìn thấy chúng sanh quá trầm thống trong biển khổ nên đôi mắt ngài lúc nào cũng đẫm lệ. Lệ này chắc chắn không phải lệ bi thương ủy mỵ nên lệ này chẳng thể làm xao động tâm an trụ. Lệ này khởi từ lòng bi mẫn chỉ khiến Bồ Tát xả thân nhiều hơn.

Với tâm thế nhân thì ý niệm yêu thương thường hạn hẹp, vị kỷ. Khi yêu thương ai, ta phải được đáp lại, được gần gũi mới là hạnh phúc trọn vẹn. Nhưng tình yêu của Đức Thế Tôn thì khác. Thế Tôn yêu thương mọi người mọi loài bình đẳng nên suốt bốn mươi chín năm trên đường hoằng hóa, Thế Tôn đã độ cho bất cứ ai mà ngài có thể độ, từ em bé chăn trâu, người gánh phân, tên sát nhân cho tới hàng vua chúa, vương tôn công tử. Bước chân Thế Tôn tới đâu là quà tặng an lạc được trao tới đó. Kẻ nhận quà, nếu biết thụ hưởng thì dù Thế Tôn còn đó hay đi xa, quà tặng đã trở thành gia tài của người nhận.

Điều này thể hiện rất rõ trước phút Thế Tôn nhập Niết Bàn. Giữa rừng cây sa-la đầy hoa trắng, Thế Tôn đã ân cần nói với các đệ tử thân yêu quanh ngài rằng “Sau khi ta diệt độ thì Pháp và Luật mà ta để lại chính là ta, là đạo sư của các con. Tuân hành và tu tập theo Pháp và Luật đó chính là các con vẫn luôn ở gần ta, là ta không từng rời xa các con”.

Nghe những lời dặn dò đó, tôn giả Anan cũng phải nín bặt khi đang úp mặt vào thân cây, nức nở khóc. Nhưng sự nín bặt đó cũng chỉ là hình thức ngưng lệ chảy mà thôi chứ đâu thể ngưng được lòng buồn khổ. Chẳng phải riêng ngài Anan mà hầu hết những đại đệ tử của Phật đều không thể dễ dàng chấp nhận sự bình thản khi Thế Tôn ra đi, dù trên lý, các ngài đều đã hiểu rất rõ lời Thế Tôn căn dặn.

Lòng hoài vọng nhớ thương Tôn-sư đã lồng vào Pháp và Luật,  nên suốt thời gian dài sau đó, Tăng đoàn tuy vẫn học, vẫn tu mà vẫn âm thầm buồn bã, vì sự thiếu vắng hình bóng vị Thầy tột cùng tôn quý, là khoảng trống chẳng một ai có thể thay thế được.

 Những đại đệ tử, những tỳ-kheo được thân cận và học hỏi trực tiếp từ Đức Phật mà còn khó ngăn cảm xúc như thế, huống chi  chúng ta, hàng hậu duệ vô minh cách xa Phật gần hai ngàn sáu trăm năm, tất nhiên còn yếu đuối tới đâu ! Điều quan trọng là khi ta biết ta yếu thì hãy nhắm mắt, thở thật sâu, niệm hồng danh Đức Thế Tôn, xin Từ Phụ truyền năng lượng để ta trở về được chánh niệm. Đừng nản lòng vì những lời trách cứ thiếu từ bi của thế nhân như “Phật dạy mọi sự vô thường, sao lại bi lụy ở những cái vô thường vậy"” hoặc những câu hỏi thiếu thiện chí tìm cầu mà chỉ nặng phần gay gắt như “ Quý vị được dạy là bản- thể-Như-Lai vốn thanh tịnh, sao còn phải tu để được thanh tịnh "”

Chúng ta phải tập quen với tâm thế gian này, để nhẹ nhàng phân giải rằng, bản-thể-Như-Lai quả là vốn thanh tịnh nhưng vì bị vô minh che lấp, duyên theo huân tập vô minh mà sanh ra hiện tượng khổ đau phiền não.

Đó là trạng thái bản thể duyên ra hiện tượng.

Chúng sanh luôn ở trong trạng thái  này nên chúng sanh cần phải nỗ lực tu, vận dụng Tăng, Thượng, Huệ để đối trị tà kiến, ái dục, ngã mạn mà trở về bản thể trong sáng của mình. Thành Phật là chuyển hóa trí tuệ, đạt tới vô thượng Bồ-Đề và giữ được tâm này thường hằng, không hề đứt đoạn.

Có lẽ Đức Phật là vị giáo chủ duy nhất không nhận mình là giáo chủ, là thánh, là thần, là cao tột, khác biệt với mọi người. Ngài chỉ nhận là mình đã thấy được lẽ vô thường, đã nhận ra bản chất đích thực cao quý trong mỗi tấm thân tứ đại vô thường, đã tìm ra cai ngục tên là Vô Minh, hằng nhốt chúng sanh trong luân hồi tăm tối. Ngài chỉ là người thấy trước nên ân cần chỉ dạy lại cho những ai muốn thoát khỏi quỹ đạo khổ đau này. Những ai TIN lời ngài, NGUYỆN theo đường ngài đi, PHỤNG sự tuân thủ những pháp môn ngài chỉ và HÀNH trì nghiêm chỉnh những gì học hỏi được thì người đó cũng bình đẳng với ngài. Ngài là Phật thì người đó cũng là Phật.

Lời ngài nói trung thực và đơn giản thế thôi.

 Gần hai ngàn sáu trăm năm, Đức Phật đã là ông chủ quán nhìn tường tận nhất, những khách trần đến rồi đi, sinh rồi hoại. Ông chủ quán chưa hề rời quán vì ông thường hằng hiển hiện sáng ngời qua Pháp và Luật ông để lại.

Lành thay, những khách trần sớm biết mình là bụi để kịp dừng lại lao  xao mà tĩnh lặng với hư không trong vô sanh bất diệt.

Đó chính là những chúng sanh đã giác ngộ nên chuyển hóa được thân phận Khách Trần của mình để trở thành Chủ Quán.  

Tôi không nhớ mấy câu thơ không đầu không cuối này từ đâu, do vị nào viết, nhưng chính cái chất liệu lơ lửng này lại khiến ý thơ tràn đầy bát ngát. Xin tác giả cho phép ghi lại đây, thay búp tay sen để được dừng bút:

“Tâm sầu lắm ư"

Thôi đi nhị kiến,

Chẳng còn ba, tư

Trên con đường thật

Người về với NHƯ.”

Diệu Trân

(Như-Thị-Am, tháng tám, 2006)      

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Làn sóng tranh luận dữ dội đang diễn ra xoay quanh câu hỏi: liệu những gì đang xảy ra tại Gaza kể từ tháng 10 năm 2023 có phải là hành vi diệt chủng hay không? Vấn đề này đã được đưa ra trước Tòa Án Quốc Tế (International Court of Justice, ICJ), Nam Phi đệ đơn kiện Israel, cáo buộc quốc gia này đã phạm tội diệt chủng. Phiên tòa bắt đầu từ tháng 12 năm 2023, nhưng đến nay ICJ vẫn chưa đưa ra phán quyết cuối cùng.
Ngày 27/5 vừa qua, trên mạng xã hội, nhiều người đã đăng lời chúc mừng sinh nhật gửi tới tù nhân Phạm Đoan Trang. Trước đó vài tuần, một tù nhân nổi tiếng khác là Trịnh Bá Phương đã bị khởi tố thêm tội danh "tuyên truyền chống Nhà nước" khi đang ở tù. Những dòng tin này nhắc nhở rằng tự do, dân chủ, nhân quyền vẫn còn là những vấn đề nhức nhối tại Việt Nam, 50 năm sau khi cuộc chiến kết thúc.
Sáng thứ Bẩy ngày 24 tháng 5 vừa qua, trong buổi lễ tốt nghiệp tại vận động trường Michie của Học Viện Quân Sự Hoa Kỳ ở West Point, khi chuẩn tướng Rogelio Garcia, chỉ huy trưởng Học Viện, tuyên bố giải tán khóa 2025, hàng ngàn chiếc mũ képi trắng được các học viên của khóa tung lên trời. Tiếng reo hò tở mở từ các tân thiếu úy đang đứng dưới sân cỏ và thân nhân của họ trên khán đài tạo nên một quang cảnh với âm thanh vừa đẹp mắt, vừa tưng bừng, vừa cảm động.
Đoàn Viết Hoạt sanh năm 1942 tại Nam định. Năm 1954 theo gia đình di cư vào Nam. Năm 1965 tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sàigòn ban Anh Văn. Năm 1966 lập gia đình với chị Trần Thị Thức, một nữ sinh viên trong phong trào sinh viên Saigon lúc bấy giờ. Năm 1967 ĐVHoạt du học Hoa Kỳ về môn Tổ Chức và Quản Trị Đại Học tại Đại học Florida State (FSU), Tallahassee, Florida. Năm 1971, đậu Ph.D. về Giáo Dục. Sau đó, Đoàn Viết Hoạt trở về nước giữ chức vụ Phụ tá Viện trưởng tại Viện Đại học Vạn Hạnh cho đến 30 tháng Tư, 1975.
Một cuộc triển lãm mới tại thành phố Philadelphia soi chiếu hành trình tiến hoá của sức khoẻ dinh dưỡng tại Hoa Kỳ qua một lăng kính độc đáo: căng-tin học đường. Mang tựa đề “Giờ Ăn Trưa: Lịch Sử Khoa Học Trên Khay Thức Ăn Học Đường,” cuộc triển lãm miễn phí tại Viện Lịch sử Khoa học Philadelphia trưng bày các bích chương, tài liệu, dụng cụ khoa học, sách dinh dưỡng và ảnh chụp để thuật lại câu chuyện về các bữa ăn tại trường học ở Mỹ.
Năm Tổng Thống Hoa Kỳ liên tiếp, thuộc cả hai chính đảng Dân Chủ và Cộng Hòa, đã nhất quyết giúp nhân dân Miền Nam bảo vệ “tiền đồn của Thế Giới Tự Do.” Hành động mạnh mẽ nhất là ‘tự động’ mang nửa triệu quân vào để chiến đấu - mặc dù Chính phủ VNCH không yêu cầu. Rồi xây cất đường xá, xa lộ Biên Hòa, hải cảng Đà Nẵng, Cam Ranh, Chu Lai, Sàigòn, và mấy chục phi trường lớn nhỏ, với những kho xưởng như Long Bình, Quy Nhơn, Phú Bài, tốn phí bao nhiêu nhân mạng, bao nhiêu tiền của để xây dựng một “tiền đồn của thế giới tự do”, ngăn chận Trung Cộng ở phía Nam
Nửa thế kỷ trước, nước Mỹ đã không tôn trọng lời cam kết giúp VNCH chiến đấu tới cùng trước làn sóng xâm lăng của Cộng Sản Thế Giới. Nhiều người, cả Việt lẫn Mỹ, cũng như dư luận thế giới, đã gọi đây là một sự phản bội đáng xấu hổ. Nhưng có học giả Mỹ đã khẳng định: “Sự phản bội của nước Mỹ đối với Nam Việt Nam là một trong những điều thông minh nhất mà nước tôi đã từng làm”.
Ngày 28 tháng 4 năm nay vừa tròn 80 năm kể từ khi nhà độc tài Ý Benito Mussolini bị xử tử tại một ngôi làng ở Ý vào cuối Thế Chiến II năm 1945. Chỉ một ngày sau đó, thi thể của ông ta bị bêu rếu và lăng nhục công khai ở Milan. Dưới bóng tội ác ghê rợn của Adolf Hitler, khi nhắc đến chủ nghĩa phát xít, nhiều người thường nghĩ ngay đến những ký ức về Đức Quốc xã. Thế nhưng, cần nhớ rằng Benito Mussolini mới chính là kẻ mở đường. Biệt danh Il Duce (xin tạm dịch là Lãnh tụ) của Mussolini chính là nguồn cảm hứng cho Hitler.
Các cuộc thăm dò cho thấy mức độ ủng hộ Trump của cử tri đang ở mức thấp kỷ lục đối với một nhà lãnh đạo sau ba tháng đầu của nhiệm kỳ. Đa số phản đối chính sách thuế quan và cắt giảm lực lượng nhân sự liên bang của ông.
Hành động công kích đầy bất ngờ của Tổng thống Trump nhắm vào nền giáo dục đại học đã vô tình đánh thức tinh thần phản kháng của Harvard cùng hơn 100 trường đại học trên khắp 40 tiểu bang. Sự kiện này cũng để lại một bài học đáng suy ngẫm: nhượng bộ và đầu hàng trước những áp lực ngang ngược, vô lý không phải là cách tồn tại bền vững cho bất kỳ tổ chức nào. Sự việc khởi đầu với lá thư ngày 11 tháng 4 từ chính quyền Trump, trong đó đưa ra hàng loạt yêu cầu đối với Đại học Harvard. Ngay lập tức trường Harvard từ chối, vậy là chính phủ thẳng tay đóng băng khoản ngân sách tài trợ trị giá 2.3 tỷ MK. Ngoài ra, Trump còn dọa tước bỏ quy chế miễn thuế của trường. Hành động này bị nhiều người xem là sự lạm quyền nhằm chi phối một cơ sở giáo dục tư thục, và đã vô tình khơi dậy làn sóng ủng hộ quyền tự chủ của các đại học trên khắp Hoa Kỳ.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.