Hôm nay,  

Bụi

24/04/200200:00:00(Xem: 5915)
Những người từng ở Trại Cấm Sikiew, Thái Lan, chắc khó quên được Giáng Sinh 1991.
"Đây có thể sẽ là Giáng Sinh cuối cùng của các con tại Sikiew...", Cha người Thái cai quản địa phận nói với đám người tị nạn. Trại sẽ đóng cửa vào cuối năm tới theo như tin tức báo chí. Và ông cho tiền làm một lễ Giáng Sinh như ở ngoài đời tại nhà thờ ở khu C trong Trại.

Phía trước nhà thờ là một khu đất trống với những mỏm đá. Chiều chiều, dân tị nạn thường ra ngồi hóng mát. Bệnh viện "Y sĩ không biên giới" ở sát bên.
Gần cổng gác phía trong, có một tảng đá, lởm chởm những chữ: "Khu C không có vấn đề gì".
Sikiew gồm ba khu, chia cách nhau, và chia cách với thế giới bên ngoài bởi những hàng rào kẽm gai, những cổng gác, những tường cao. Nhà tù ở khoảng đất chũng, ngay dưới khu nhà dành cho nhân viên Bộ Nội Vụ Thái. Trước có những vòng kẽm gai bao quanh, sau được gỡ bỏ.

Em không nhớ đâu, lần đầu chúng ta gặp, những ngày dài ở Trại.
Đúng ra là lần đầu anh nhìn thấy em.
Khi được biết cơ quan ARC (American Refugee Committee) cần một thiện nguyện viên cho chương trình Sức khoẻ Tâm thần, vì muốn kiểm tra mớ tiếng Anh còn sót lại, anh đến gặp ông K. Trưởng Toán. Em và mấy người bạn ngồi quanh một chiếc bàn dài gần bên. Chắc anh nói tiếng Anh quá dở vì anh thấy em bĩu môi, quay đi, mắt thờ thẫn nhìn ra phía bên ngoài cửa sổ.
Chẳng phải cái bĩu môi, cái nhìn thờ thẫn, vẻ dửng dưng chẳng chờ mong bất cứ điều gì, nhưng dung nhan tàn tạ ở em làm anh giật mình. Anh tự nhủ thầm, đây là một thiếu nữ ngày xưa chắc chắn xinh đẹp lắm. Cái bĩu môi kia ngày nào chúa láu lỉnh, bây giờ thêm một chút chua chát, chán chường... Đây cũng là một con người vừa thoát ra khỏi quá khứ và chắc chắn không làm sao quên nổi.

-Viết như thế chỉ là miêu tả"
-Proust nói, những gì đã sống đều mong được sống lại. Miêu tả là làm sự vật sống lại, theo sự "sắp xếp" của người viết.
-Như vậy "cách" miêu tả rất quan trọng"
-Đó là quan niệm của Kafka, kỹ thuật chính là linh hồn của văn chương.

Anh như nhìn thấy chính anh.
Không, chẳng bao giờ anh muốn coi anh, em và tất cả chúng ta là những nạn nhân. Đó là niềm tự kiêu cuối cùng chúng ta còn giữ được để sống sót.
"Không phải như vậy đâu. Cái chế độ đó chẳng làm gì nổi em. Có khi em còn phải cám ơn nó, nhờ nó mà em gặp anh H. Ảnh trước là cảnh sát đặc biệt, sau 75 đi cải tạo, vợ bỏ. Rồi chúng em gặp nhau".
"Hồi nhỏ em mong ước trở thành ca sĩ, nhưng căn bệnh xóa sạch mọi ước mơ, kể cả ước mơ sẽ có người yêu, có chồng có con như tất cả những người đàn bà bình thường khác. Thầy biết không, anh H. có một đứa con với người vợ trước".
"Nhưng nếu không vì dung nhan tàn tạ, chắc gì Thầy đã nhận ra em""

Em ở bên C, anh bên A. Khu A gần hàng rào. Phía ngoài là trại tù giam giữ người Việt ở Thái nhưng không chịu sinh sống tại những địa phương do chính quyền chỉ định. Tuy là tù nhưng họ được tự do, thong thả hơn so với đám người tị nạn trong trại cấm. Nhờ vậy mà có chuyện mua đồ hàng rào. Trong ném tiền ra, ngoài ném đồ vô. Những vật dụng cho đời sống hàng ngày. Và rượu. Ma túy.
Anh còn nhớ có lần em nhờ anh mua giùm một đôi guốc. Mua được rồi, anh nhét kỹ trong người, đi qua trạm gác phân chia hai khu vực.
Bây giờ ở đây, khi gió, tuyết, và nỗi cô đơn lạnh cứng người, anh vẫn cảm thấy chút ấm áp của đôi guốc ngày nào. Và anh thèm sống lại cảm giác hoang mang, lo sợ khi đi ngang trạm gác.
Rồi những lần bên ngoài thương tình ném trái cây vào trong trại.

Có một truyền thuyết được truyền tụng bằng "kỹ thuật" rỉ tai giữa đám người tị nạn ở Sikiew. Vào những đêm trước khi xổ thanh lọc, những linh hồn người chết lang thang trên những mỏm đá phía trước giáo đường, nơi được dùng để công bố kết quả. Có người nói đó là linh hồn cô gái treo cổ tự tử sau khi rớt thanh lọc. Và cũng giống như những kẻ sát nhân không thể quên nơi xảy ra án mạng, cô vẫn quanh quẩn nơi chốn xưa, chờ đón những hồn ma mới. Một số khác dựa vào khoa học, coi đó là hồn ma của chính họ, ngày đêm bị tù túng, bèn tìm cách xuất khỏi xác.
"Thôi mà...", một người ra vẻ hiểu biết, "chỉ là mấy ông mãnh vô công rồi nghề, đêm mò ra kẽ đá bắt dế, ngày xúm nhau chơi trò con nít, thay vì ôm cái máy điện tử bấm liên hồi..."
Sau cùng có hai tay rủ nhau thức suốt đêm. Câu chuyện họ kể lại nghe cũng có lý...

"Hình như cái số của em là cứ bị mấy ông thầy thương. Anh H. cũng là thầy dậy em học đờn. Em đã chọn anh H., chính em chọn".
Vậy mà đã trên ba năm trời. Điều anh lo lắng nhất vẫn là căn bệnh của em. Những ngày cuối cùng ở Trại Cấm, chờ đợi kết quả thanh lọc, có mấy ai chắc chắn qua được, đó là những ngày anh thấy em bệnh nhất. Và cũng thấy em đẹp nhất. Cơn đau làm má em ửng đỏ, làm em đẹp một cách lười biếng, không thèm che đậy, buông thả trong cách ngồi, cách lơ đãng nhìn bài học, nhìn ông thầy. Khi em nghĩ, có thể em đang làm phiền bạn đồng học, hoặc cơn đau làm em hết chịu đựng nổi, em bỏ ra ngoài. Hình như anh thương em từ ngày đó. Thương theo nghĩa muốn chia sẻ cùng em một chút cơn đau. Khi em rời Trại Cấm, lên khu chuyển tiếp, chờ gặp phái đoàn, chờ ngày đi định cư, chỉ tới phút đó, anh mới nhìn rõ tình cảm của mình. Anh mừng thầm, vì chẳng bao giờ em biết được, và khi anh chạy theo em, chắc chắn là em đã đi rồi. Anh mặc cả cùng số mệnh, nếu anh qua được, em còn ở đó, anh sẽ nói...


Em nhớ lần đầu anh xin hôn em" Bữa đó, em đang ngồi ăn. Anh H. xong trước, bỏ ra ngoài tụ tập với đám bạn bè cũng lính tráng, sĩ quan ngày xưa. Em vừa ăn, vừa cười, vừa nói... Môi em bóng nhẫy, anh không thể dằn được, hỏi xin. Em láu lỉnh trả lời:
-Trời đánh còn tránh bữa ăn!
Chính cái tính tình thông minh, cái bĩu môi đầy gợi cảm, cái lối nói như buộc lấy nhau đó làm anh khốn khổ, khốn nạn vì em.
Ngay cả lá thư đầu em viết, anh cũng không thể ngờ được. Bữa đó, anh qua nhà, em nghiêm trang nói: "Thầy ngồi xuống đây, sửa giùm em bài tiếng Anh". Đâu có ngờ đó là những tình cảm, sự hối hận, cơn hoảng sợ vì trò đùa biến thành sự thật:
-What we are doing is not good... Cái điều chúng ta đang làm không tốt. Thầy đừng qua nhà em nhiều. Khi em đi rồi Thầy sẽ khổ. Em cũng nhớ Thầy vậy.

Họ nói, họ thấy hai ông tiên, râu tóc bạc trắng, mỗi ông cầm một cuốn sổ, ngồi đối diện trên hai mỏm đá. Bên dưới là những hồn ma, kẻ khóc lóc, kẻ năn nỉ... "Sự thật" nổ bùng ra, như thuốc súng. Mọi người đổ xô ra mân mê, khẩn cầu hai mỏm đá vô tri. Có thể vì quá bực mình, hoặc ái ngại, hoặc muốn cho cuộc phán xét tử sinh được công tâm, hai vị tiên đã cho xây những bức tường cao, che kín mọi bí ẩn.
Bây giờ nếu bạn không tin, xin mời tới Sikiew. Những bức tường giờ này vẫn còn, và được dùng vào việc giam tù, đóng dấu ấn Địa Ngục.
Trong những điều được nói về Sikiew, tất cả chỉ là bịa đặt, hoặc tô điểm. Duy có điều này: Nó thực sự là một địa ngục.

-Nước mắt cũng có hạn. Nơi này đổ ra nhiều thì nơi khác dè xẻn lại.
-Bạn muốn nói, đừng lạm dụng cảm xúc"
-Người ta chỉ đọc khi xúc động. Nhưng chớ bao giờ lạm dụng cảm xúc của độc giả cũng như của chính mình.


12 giờ đêm.
Không ai ngủ được. Có chăng chỉ là vật vờ, khắc khoải. Cứ như áy náy, xót xa một điều gì. Trời không nóng. Sikiew vào độ cuối năm thường se lạnh về đêm. Một số người ngày thường vốn dễ ngủ, vậy mà đêm nay cũng làm như bực mình vô cớ. Họ kéo nhau ra sau căn lều bầy một bàn trà, nhỏ to trò chuyện. Đám an ninh, vốn rất nghiêm với những vụ vi phạm 48 điều nội qui, đêm nay sao cũng như chùng xuống. Trong căn lều đèn đã tắt. Đám người quanh bàn trà thỉnh thoảng khum tay che ngọn đèn cầy chập choạng trước gió. Ngoài kia trăng lưỡi liềm treo chếch, ngược ngạo một bên trời, sau rặng cây. Trong căn lều có ai đó la ú ớ. Mọi người giật mình. Không phải. Báo động hoảng.
1 giờ sáng
Luồng gió lạnh tẩm đầy thứ sương sớm ẩm độc của miền núi theo nhau ùa xuống thung lũng Sikiew. Bóng đen sẫm của khối núi phía sau Trại đè nặng lên mớ lều lùn tịt. Ánh trăng mầu huyết dụ rùng mình giữa đám lá cây. Một con cú từ họng núi xa, nhắm căn lều vỗ cánh loạn xạ. Tiếng đập cánh làm một con chó hoang rướn cổ tru dài. Con cú đảo một vòng quanh lều, rúc lên một hồi. Một con mèo đen, từ một xó xỉnh nào, bỗng nhẩy xổ lên mặt bàn. Mấy chiếc ly giật mình kêu loảng xoảng. Ngọn đèn cầy chao nghiêng, rỏ xuống mặt bàn mấy giọt nến làm dấu.
Đột nhiên nhận ra sự hiện diện của đám người ngồi quanh bàn, con cú đảo về phía núi, đầu ngoái lại như tiếc rẻ. Câu chuyện đang từ đề tài muôn thuở, thanh lọc, bỗng chuyển qua điềm triệu. Một anh chàng trung niên, cựu sĩ quan, quả quyết chính mắt nhìn thấy một con cú khổng lồ trên nóc dinh Độc Lập, đúng đêm 30 tháng Tư năm nọ. Nó cứ rúc lên từng hồi. Mọi người rướn dài cổ, há hốc mồm... "Hỡi các anh em binh sĩ, sĩ quan, hãy buông súng đầu hàng!"
2 giờ sáng
Sương xuống nhiều hơn. Trời đất mù mù, ảo ảo, nhuộm mầu máu bầm của lưỡi trăng ma quái móc một nửa vào mái bệnh viện. Con cú trở lại. Sợ đám người, nó lựa một cành cây chết ngay bên dưới lưỡi trăng, rúc lên từng hồi. Đám người không ai bảo ai, lượm đá ném tới tấp. Không thèm để ý đến việc làm vô ích, con cú chờ đám người hết lăng xăng, một lúc sau mới rời cành cây, theo hướng núi bỏ đi.
3 giờ sáng
Anh chàng thanh niên chợt thức giấc, ngó lên căn lều, ngạc nhiên lẩm bẩm: "Quần áo ai treo lủng lẳng...". Bỗng anh giật bắn người, tỉnh hẳn.
Xác cô gái được gỡ xuống, đem cho mấy ông Y Sĩ Không Biên Giới.

Yêu tức là cầu chúc quên được nhau

Sikiew nổi tiếng trong đám người tị nạn vì bụi của nó.
Ngay những giấc mơ của họ cũng đầy bụi.
Chúng mình chỉ là hai hạt bụi lỡ thương nhau.
Người xưa thèm nắm áo đề thơ. Có lần anh mơ thấy em. Và sau đây là bài thơ nắm áo:
Chiều ngu ngơ phố thị...

(Khi chuyện cô gái treo cổ tự tử xẩy ra, anh và em đã rời Sikiew. Chắc em còn nhớ Dũng, học trò Pháp văn, bạn cờ, và cũng là người giúp đỡ anh rất nhiều trong những ngày ở Trại Cấm. Dũng đã ghi lại, gửi lên trại Transit cho anh, nhờ sửa rồi gửi cho các báo hải ngoại, hy vọng có chút tài liệu khi tái thanh lọc. Dũng rất mê văn chương, rất phục Garcia Marquez. Chi tiết con cú đậu trên nóc dinh Độc Lập là của Dũng. Cũng vậy, những đoạn tả cảnh địa ngục trong lúc chờ đón linh hồn nạn nhân. Anh chỉ sửa lời văn, thêm thắt một vài chi tiết. Chính chi tiết lý thú đặc chất Garcia Marquez về con cú đã gợi hứng cho anh, và anh đã viết thành một truyện ngắn, tác giả Nguyễn Anh Dũng, gởi đăng ở một tờ báo ở Úc, và một ở Canada. Hồi ở trại Transit, hình như em đã có đọc.
Lâu lắm, anh không còn nhận được tin của Dũng. Anh viết lại câu chuyện trên, thêm phần của anh và của em, như một kỷ niệm những ngày ở Trại. Anh mong một ngày nào em sẽ đọc, Dũng sẽ đọc, và biết rằng, chính anh ta, và bây giờ có em, là tác giả truyện ngắn này).

Nguyễn Quốc Trụ
(http://www.saomai.org/~tinvan/unicode/index.html )

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Anderson tập trung vào cách các phương tiện truyền thông tạo ra cái gọi là “các cộng đồng tưởng tượng”, đặc biệt là sức mạnh của phương tiện in ấn trong việc định hình tâm lý xã hội của một cá nhân. Anderson phân tích chữ viết, một công cụ được sử dụng bởi các giáo hội, tác giả và các công ty truyền thông (đặc biệt là sách, báo và tạp chí), cũng như các công cụ của chính phủ như bản đồ, kiểm tra dân số (census) và viện bảo tàng. Tất cả các công cụ này đều được xây dựng để nhắm vào đại chúng thông qua những hình ảnh, hệ tư tưởng và ngôn ngữ đang chiếm giữ ưu thế. Ví dụ, Anderson phân tích một cách sâu sắc về nguồn gốc văn hóa và tôn giáo của một biểu tượng rất điển hình của chủ nghĩa dân tộc hiện đại: các đài chiến sĩ trận vong với người lính vô danh.
Thánh Kinh nói thế. “Homosexuality is sin". “Đồng tính là tội lỗi.” Sự thật thì sao??? Lần đầu tiên từ “đồng tính" xuất hiện trong Thánh Kinh là năm 1946, khoảng một ngàn chín trăm mười năm sau khi chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự. Trong gần 80 năm qua, nó làm nền tảng cho không biết bao phân biệt đối xử, gây bao đau thương chết chóc cho những người đồng tính.
Quan điểm chính trị thường đươc chia làm hai phe: bảo thủ và cấp tiến. Người bảo thủ có nhiều quan điểm trái ngược với người cấp tiến. Người cấp tiến còn gọi là "khuynh tả", có khi được cho là "thân cộng". Chữ "liberal" được dùng với hàm ý miệt thị. Thật ra thì không đơn giản như vậy. Xin đọc tiếp.
Một câu hỏi phức tạp, gây tranh luận sôi nổi và trở lại Tối Cao Pháp Viện (TCPV) vào mùa thu này: Điều gì sẽ xảy ra khi quyền tự do ngôn luận và quyền công dân xung đột với nhau?
Có một câu hỏi còn bỏ ngỏ cho các chuyên gia và các nghiên cứu gia: Có phải hiện nay có nhiều người Mỹ tin vào các thuyết âm mưu hơn bao giờ hết không? Tốt nghiệp xong bằng Tiến Sĩ Triết Học, Keith Raymond Harris thực hiện một cuộc nghiên cứu về các thuyết âm mưu chỉ ra mối lo ngại rằng việc tập trung vào tìm hiểu bao nhiêu người Mỹ tin tưởng các giả thuyết về âm mưu có thể khiến chúng ta lơ là quên đi những mầm hiểm họa tự các thuyết âm mưu này gieo rắc.
Lãi suất tăng đều đặn đã khiến người tiêu dùng và doanh nghiệp ngày càng tốn kém khi đi vay – để mua nhà, xe và các giao dịch hàng hóa khác. Và gần như chắc chắn sắp tới sẽ có thêm nhiều đợt tăng lãi suất nữa. Các viên chức FED được cho là sẽ phát tín hiệu lãi suất chuẩn có thể lên tới 4.5% vào đầu năm tới. Một chuỗi các đợt tăng lãi suất sẽ khiến nền kinh tế Mỹ có nguy cơ rơi vào suy thoái, đồng nghĩa với thất nghiệp, sa thải nhân viên và tạo áp lực lên giá chứng khoán. Bài này nêu lên những thắc mắc và trả lời thiết thực dành cho người tiêu dùng.
Chủ nghĩa Dân Tộc Cơ-đốc tin rằng nước Mỹ được xác định bởi Cơ-đốc giáo, và chính phủ nên thực hiện các bước tích cực để giữ nó theo cách đó. Những người theo chủ nghĩa dân tộc Cơ-đốc khẳng định rằng nước Mỹ đang và vẫn phải là một “quốc gia Cơ-đốc giáo”, không chỉ đơn thuần là một quan sát về lịch sử, mà là một chương trình cho những gì nước Mỹ phải tiếp tục trong tương lai.
Baltimore, nằm ngay trên bờ vịnh Chesapeake Bay thuộc bờ biển Đại Tây Dương, có dân số khoảng 700.000 người. Đó là thành phố, cũng là trung tâm công nghiệp và văn hóa lớn nhất của tiểu bang Maryland. Trong thời gian đầu lập quốc, Baltimore đã từng là một trong ba hải cảng lớn nhất của Hoa Kỳ và nó cũng đã từng đóng góp một phần vô cùng quan trọng trong ngành ngoại thương và phát triển kinh tế cho xứ sở này.
Sau khi nhiều tờ báo tiếng Anh phổ biến bản tin về vụ 4 nguyên đơn, gồm Elisabeth Le, Phuong Le, Lan Tran, và Lien Ta, kiện bị cáo Quyen Van Ho, đạo hiệu Thích Đạo Quảng, trụ trì Chùa Tam Bảo tại thành phố Baton Rouge thuộc tiểu bang Louisiana, tòa soạn Việt Báo đã thu thập được một số bản tin cập nhật và các tài liệu liên quan đến vụ này, gồm lá thư của Bác sĩ tâm lý đã về hưu John W. Pickering gửi cho báo The Advocate, và lá thư ngỏ của Luật sư di trú Roger K. Ward, Esq. gửi cho các Phật tử của Chùa Tam Bảo. Việt Báo trích dịch và đăng lại.
Tầm quan trọng của diaspora hay cộng đồng người gốc Việt sống ngoài Việt Nam càng ngày càng gia tăng. Để có một cái nhìn tổng quát, có tính cách học thuật và khách quan hơn về tình hình chung của diaspora Việt cũng như các diaspora khác trên thế giới, tôi xin giới thiệu và dịch bài viết năm 2005 của Steven Vertovec, một giáo sư đại học Đức chuyên về Xã hội học và Dân tộc học. Sau đây là phần 2, tiếp theo phần 1 (kỳ trước) bàn về các ý niệm và định nghĩa của diaspora. Các điểm liên quan tới Việt Nam sẽ được người dịch ghi chú, bàn luận thêm trong phần chú thích ở cuối bài.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.