Hôm nay,  

Bụi

24/04/200200:00:00(Xem: 5720)
Những người từng ở Trại Cấm Sikiew, Thái Lan, chắc khó quên được Giáng Sinh 1991.
"Đây có thể sẽ là Giáng Sinh cuối cùng của các con tại Sikiew...", Cha người Thái cai quản địa phận nói với đám người tị nạn. Trại sẽ đóng cửa vào cuối năm tới theo như tin tức báo chí. Và ông cho tiền làm một lễ Giáng Sinh như ở ngoài đời tại nhà thờ ở khu C trong Trại.

Phía trước nhà thờ là một khu đất trống với những mỏm đá. Chiều chiều, dân tị nạn thường ra ngồi hóng mát. Bệnh viện "Y sĩ không biên giới" ở sát bên.
Gần cổng gác phía trong, có một tảng đá, lởm chởm những chữ: "Khu C không có vấn đề gì".
Sikiew gồm ba khu, chia cách nhau, và chia cách với thế giới bên ngoài bởi những hàng rào kẽm gai, những cổng gác, những tường cao. Nhà tù ở khoảng đất chũng, ngay dưới khu nhà dành cho nhân viên Bộ Nội Vụ Thái. Trước có những vòng kẽm gai bao quanh, sau được gỡ bỏ.

Em không nhớ đâu, lần đầu chúng ta gặp, những ngày dài ở Trại.
Đúng ra là lần đầu anh nhìn thấy em.
Khi được biết cơ quan ARC (American Refugee Committee) cần một thiện nguyện viên cho chương trình Sức khoẻ Tâm thần, vì muốn kiểm tra mớ tiếng Anh còn sót lại, anh đến gặp ông K. Trưởng Toán. Em và mấy người bạn ngồi quanh một chiếc bàn dài gần bên. Chắc anh nói tiếng Anh quá dở vì anh thấy em bĩu môi, quay đi, mắt thờ thẫn nhìn ra phía bên ngoài cửa sổ.
Chẳng phải cái bĩu môi, cái nhìn thờ thẫn, vẻ dửng dưng chẳng chờ mong bất cứ điều gì, nhưng dung nhan tàn tạ ở em làm anh giật mình. Anh tự nhủ thầm, đây là một thiếu nữ ngày xưa chắc chắn xinh đẹp lắm. Cái bĩu môi kia ngày nào chúa láu lỉnh, bây giờ thêm một chút chua chát, chán chường... Đây cũng là một con người vừa thoát ra khỏi quá khứ và chắc chắn không làm sao quên nổi.

-Viết như thế chỉ là miêu tả"
-Proust nói, những gì đã sống đều mong được sống lại. Miêu tả là làm sự vật sống lại, theo sự "sắp xếp" của người viết.
-Như vậy "cách" miêu tả rất quan trọng"
-Đó là quan niệm của Kafka, kỹ thuật chính là linh hồn của văn chương.

Anh như nhìn thấy chính anh.
Không, chẳng bao giờ anh muốn coi anh, em và tất cả chúng ta là những nạn nhân. Đó là niềm tự kiêu cuối cùng chúng ta còn giữ được để sống sót.
"Không phải như vậy đâu. Cái chế độ đó chẳng làm gì nổi em. Có khi em còn phải cám ơn nó, nhờ nó mà em gặp anh H. Ảnh trước là cảnh sát đặc biệt, sau 75 đi cải tạo, vợ bỏ. Rồi chúng em gặp nhau".
"Hồi nhỏ em mong ước trở thành ca sĩ, nhưng căn bệnh xóa sạch mọi ước mơ, kể cả ước mơ sẽ có người yêu, có chồng có con như tất cả những người đàn bà bình thường khác. Thầy biết không, anh H. có một đứa con với người vợ trước".
"Nhưng nếu không vì dung nhan tàn tạ, chắc gì Thầy đã nhận ra em""

Em ở bên C, anh bên A. Khu A gần hàng rào. Phía ngoài là trại tù giam giữ người Việt ở Thái nhưng không chịu sinh sống tại những địa phương do chính quyền chỉ định. Tuy là tù nhưng họ được tự do, thong thả hơn so với đám người tị nạn trong trại cấm. Nhờ vậy mà có chuyện mua đồ hàng rào. Trong ném tiền ra, ngoài ném đồ vô. Những vật dụng cho đời sống hàng ngày. Và rượu. Ma túy.
Anh còn nhớ có lần em nhờ anh mua giùm một đôi guốc. Mua được rồi, anh nhét kỹ trong người, đi qua trạm gác phân chia hai khu vực.
Bây giờ ở đây, khi gió, tuyết, và nỗi cô đơn lạnh cứng người, anh vẫn cảm thấy chút ấm áp của đôi guốc ngày nào. Và anh thèm sống lại cảm giác hoang mang, lo sợ khi đi ngang trạm gác.
Rồi những lần bên ngoài thương tình ném trái cây vào trong trại.

Có một truyền thuyết được truyền tụng bằng "kỹ thuật" rỉ tai giữa đám người tị nạn ở Sikiew. Vào những đêm trước khi xổ thanh lọc, những linh hồn người chết lang thang trên những mỏm đá phía trước giáo đường, nơi được dùng để công bố kết quả. Có người nói đó là linh hồn cô gái treo cổ tự tử sau khi rớt thanh lọc. Và cũng giống như những kẻ sát nhân không thể quên nơi xảy ra án mạng, cô vẫn quanh quẩn nơi chốn xưa, chờ đón những hồn ma mới. Một số khác dựa vào khoa học, coi đó là hồn ma của chính họ, ngày đêm bị tù túng, bèn tìm cách xuất khỏi xác.
"Thôi mà...", một người ra vẻ hiểu biết, "chỉ là mấy ông mãnh vô công rồi nghề, đêm mò ra kẽ đá bắt dế, ngày xúm nhau chơi trò con nít, thay vì ôm cái máy điện tử bấm liên hồi..."
Sau cùng có hai tay rủ nhau thức suốt đêm. Câu chuyện họ kể lại nghe cũng có lý...

"Hình như cái số của em là cứ bị mấy ông thầy thương. Anh H. cũng là thầy dậy em học đờn. Em đã chọn anh H., chính em chọn".
Vậy mà đã trên ba năm trời. Điều anh lo lắng nhất vẫn là căn bệnh của em. Những ngày cuối cùng ở Trại Cấm, chờ đợi kết quả thanh lọc, có mấy ai chắc chắn qua được, đó là những ngày anh thấy em bệnh nhất. Và cũng thấy em đẹp nhất. Cơn đau làm má em ửng đỏ, làm em đẹp một cách lười biếng, không thèm che đậy, buông thả trong cách ngồi, cách lơ đãng nhìn bài học, nhìn ông thầy. Khi em nghĩ, có thể em đang làm phiền bạn đồng học, hoặc cơn đau làm em hết chịu đựng nổi, em bỏ ra ngoài. Hình như anh thương em từ ngày đó. Thương theo nghĩa muốn chia sẻ cùng em một chút cơn đau. Khi em rời Trại Cấm, lên khu chuyển tiếp, chờ gặp phái đoàn, chờ ngày đi định cư, chỉ tới phút đó, anh mới nhìn rõ tình cảm của mình. Anh mừng thầm, vì chẳng bao giờ em biết được, và khi anh chạy theo em, chắc chắn là em đã đi rồi. Anh mặc cả cùng số mệnh, nếu anh qua được, em còn ở đó, anh sẽ nói...


Em nhớ lần đầu anh xin hôn em" Bữa đó, em đang ngồi ăn. Anh H. xong trước, bỏ ra ngoài tụ tập với đám bạn bè cũng lính tráng, sĩ quan ngày xưa. Em vừa ăn, vừa cười, vừa nói... Môi em bóng nhẫy, anh không thể dằn được, hỏi xin. Em láu lỉnh trả lời:
-Trời đánh còn tránh bữa ăn!
Chính cái tính tình thông minh, cái bĩu môi đầy gợi cảm, cái lối nói như buộc lấy nhau đó làm anh khốn khổ, khốn nạn vì em.
Ngay cả lá thư đầu em viết, anh cũng không thể ngờ được. Bữa đó, anh qua nhà, em nghiêm trang nói: "Thầy ngồi xuống đây, sửa giùm em bài tiếng Anh". Đâu có ngờ đó là những tình cảm, sự hối hận, cơn hoảng sợ vì trò đùa biến thành sự thật:
-What we are doing is not good... Cái điều chúng ta đang làm không tốt. Thầy đừng qua nhà em nhiều. Khi em đi rồi Thầy sẽ khổ. Em cũng nhớ Thầy vậy.

Họ nói, họ thấy hai ông tiên, râu tóc bạc trắng, mỗi ông cầm một cuốn sổ, ngồi đối diện trên hai mỏm đá. Bên dưới là những hồn ma, kẻ khóc lóc, kẻ năn nỉ... "Sự thật" nổ bùng ra, như thuốc súng. Mọi người đổ xô ra mân mê, khẩn cầu hai mỏm đá vô tri. Có thể vì quá bực mình, hoặc ái ngại, hoặc muốn cho cuộc phán xét tử sinh được công tâm, hai vị tiên đã cho xây những bức tường cao, che kín mọi bí ẩn.
Bây giờ nếu bạn không tin, xin mời tới Sikiew. Những bức tường giờ này vẫn còn, và được dùng vào việc giam tù, đóng dấu ấn Địa Ngục.
Trong những điều được nói về Sikiew, tất cả chỉ là bịa đặt, hoặc tô điểm. Duy có điều này: Nó thực sự là một địa ngục.

-Nước mắt cũng có hạn. Nơi này đổ ra nhiều thì nơi khác dè xẻn lại.
-Bạn muốn nói, đừng lạm dụng cảm xúc"
-Người ta chỉ đọc khi xúc động. Nhưng chớ bao giờ lạm dụng cảm xúc của độc giả cũng như của chính mình.


12 giờ đêm.
Không ai ngủ được. Có chăng chỉ là vật vờ, khắc khoải. Cứ như áy náy, xót xa một điều gì. Trời không nóng. Sikiew vào độ cuối năm thường se lạnh về đêm. Một số người ngày thường vốn dễ ngủ, vậy mà đêm nay cũng làm như bực mình vô cớ. Họ kéo nhau ra sau căn lều bầy một bàn trà, nhỏ to trò chuyện. Đám an ninh, vốn rất nghiêm với những vụ vi phạm 48 điều nội qui, đêm nay sao cũng như chùng xuống. Trong căn lều đèn đã tắt. Đám người quanh bàn trà thỉnh thoảng khum tay che ngọn đèn cầy chập choạng trước gió. Ngoài kia trăng lưỡi liềm treo chếch, ngược ngạo một bên trời, sau rặng cây. Trong căn lều có ai đó la ú ớ. Mọi người giật mình. Không phải. Báo động hoảng.
1 giờ sáng
Luồng gió lạnh tẩm đầy thứ sương sớm ẩm độc của miền núi theo nhau ùa xuống thung lũng Sikiew. Bóng đen sẫm của khối núi phía sau Trại đè nặng lên mớ lều lùn tịt. Ánh trăng mầu huyết dụ rùng mình giữa đám lá cây. Một con cú từ họng núi xa, nhắm căn lều vỗ cánh loạn xạ. Tiếng đập cánh làm một con chó hoang rướn cổ tru dài. Con cú đảo một vòng quanh lều, rúc lên một hồi. Một con mèo đen, từ một xó xỉnh nào, bỗng nhẩy xổ lên mặt bàn. Mấy chiếc ly giật mình kêu loảng xoảng. Ngọn đèn cầy chao nghiêng, rỏ xuống mặt bàn mấy giọt nến làm dấu.
Đột nhiên nhận ra sự hiện diện của đám người ngồi quanh bàn, con cú đảo về phía núi, đầu ngoái lại như tiếc rẻ. Câu chuyện đang từ đề tài muôn thuở, thanh lọc, bỗng chuyển qua điềm triệu. Một anh chàng trung niên, cựu sĩ quan, quả quyết chính mắt nhìn thấy một con cú khổng lồ trên nóc dinh Độc Lập, đúng đêm 30 tháng Tư năm nọ. Nó cứ rúc lên từng hồi. Mọi người rướn dài cổ, há hốc mồm... "Hỡi các anh em binh sĩ, sĩ quan, hãy buông súng đầu hàng!"
2 giờ sáng
Sương xuống nhiều hơn. Trời đất mù mù, ảo ảo, nhuộm mầu máu bầm của lưỡi trăng ma quái móc một nửa vào mái bệnh viện. Con cú trở lại. Sợ đám người, nó lựa một cành cây chết ngay bên dưới lưỡi trăng, rúc lên từng hồi. Đám người không ai bảo ai, lượm đá ném tới tấp. Không thèm để ý đến việc làm vô ích, con cú chờ đám người hết lăng xăng, một lúc sau mới rời cành cây, theo hướng núi bỏ đi.
3 giờ sáng
Anh chàng thanh niên chợt thức giấc, ngó lên căn lều, ngạc nhiên lẩm bẩm: "Quần áo ai treo lủng lẳng...". Bỗng anh giật bắn người, tỉnh hẳn.
Xác cô gái được gỡ xuống, đem cho mấy ông Y Sĩ Không Biên Giới.

Yêu tức là cầu chúc quên được nhau

Sikiew nổi tiếng trong đám người tị nạn vì bụi của nó.
Ngay những giấc mơ của họ cũng đầy bụi.
Chúng mình chỉ là hai hạt bụi lỡ thương nhau.
Người xưa thèm nắm áo đề thơ. Có lần anh mơ thấy em. Và sau đây là bài thơ nắm áo:
Chiều ngu ngơ phố thị...

(Khi chuyện cô gái treo cổ tự tử xẩy ra, anh và em đã rời Sikiew. Chắc em còn nhớ Dũng, học trò Pháp văn, bạn cờ, và cũng là người giúp đỡ anh rất nhiều trong những ngày ở Trại Cấm. Dũng đã ghi lại, gửi lên trại Transit cho anh, nhờ sửa rồi gửi cho các báo hải ngoại, hy vọng có chút tài liệu khi tái thanh lọc. Dũng rất mê văn chương, rất phục Garcia Marquez. Chi tiết con cú đậu trên nóc dinh Độc Lập là của Dũng. Cũng vậy, những đoạn tả cảnh địa ngục trong lúc chờ đón linh hồn nạn nhân. Anh chỉ sửa lời văn, thêm thắt một vài chi tiết. Chính chi tiết lý thú đặc chất Garcia Marquez về con cú đã gợi hứng cho anh, và anh đã viết thành một truyện ngắn, tác giả Nguyễn Anh Dũng, gởi đăng ở một tờ báo ở Úc, và một ở Canada. Hồi ở trại Transit, hình như em đã có đọc.
Lâu lắm, anh không còn nhận được tin của Dũng. Anh viết lại câu chuyện trên, thêm phần của anh và của em, như một kỷ niệm những ngày ở Trại. Anh mong một ngày nào em sẽ đọc, Dũng sẽ đọc, và biết rằng, chính anh ta, và bây giờ có em, là tác giả truyện ngắn này).

Nguyễn Quốc Trụ
(http://www.saomai.org/~tinvan/unicode/index.html )

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mục tiêu ban đầu khi Tổng thống John F. Kennedy thành lập USAID trong cuộc chiến tranh lạnh với Nga vào năm 1961, nội các của ông không chỉ nhắm đến các viện trợ dân sự và nhân đạo mà còn mang mục đích sâu xa hơn: Đó là sự ổn định và phát triển của các quốc gia khác sẽ bảo vệ cho nền an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Mục đích này vẫn không thay đổi sau hơn sáu thập niên hoạt động của USAID, qua nhiều đời tổng thống Mỹ. Bởi lợi ích của nước Mỹ nằm khắp thế giới, những sự giúp đỡ, viện trợ trước mắt mang lại lợi ích chiến lược lâu dài cho nước Mỹ. Các nghiên cứu về USAID cho thấy quyền lực mềm của nước Mỹ do USAID đã mang lại thiện cảm về nước Mỹ, giúp hàng hóa, sản phẩm Mỹ được ưa chuộng tại các thị trường nội địa và gián tiếp giúp cho các tập đoàn Mỹ nhận được các hợp đồng kinh tế to lớn so với các đối thủ. Ngược lại, khi thiện cảm này bị mất đi, hay thậm chí bị ghét bỏ, làn sóng tẩy chay hàng Mỹ là lẽ đương nhiên. Những chương trình giáo dục, huấn nghệ cho trẻ em các nước chiến tranh
Doanh nhân Donald Trump đã khởi xướng trào lưu dân tuý và hai lần thắng cử tổng thống. Ngay khi xuất hiện lần đầu tiên trên chính trường để vận động tranh cử năm 2016, Trump không có tham vọng thu tóm quyền lãnh đạo Đảng Cộng hoà trong ý tưởng thù địch, mặc dù thể hiện nhiều quan điểm chống đối gay gắt. Ngược lại, ngày nay, "chủ thuyết Trump" chế ngự toàn diện mọi sinh hoạt của đất nước. Thực ra, khi nhìn lại hoạt động của Đảng trong thời hiện đại, đây là kết quả của một tiến trình dài nhằm tái định hình chiến lược bảo thủ mà Đảng đã đề ra vào những năm 1960.
Một trong những sắc lệnh hành pháp đầu tiên của Tổng thống Donald Trump là một đòn tấn công trực diện vào nguyên tắc hiến pháp lâu đời về quyền có quốc tịch theo nơi sinh (birthright citizenship). Quyền này được quy định trong Tu Chính Án Thứ 14 của Hiến pháp Hoa Kỳ, ghi rõ rằng bất kỳ ai sinh ra trên lãnh thổ Hoa Kỳ đều đương nhiên trở thành công dân Hoa Kỳ, không phân biệt nguồn gốc hay tình trạng nhập cư của cha mẹ.
Trong hơn một thế kỷ qua, vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên phong phú của Greenland đã khiến hòn đảo này trở thành một trong những mục tiêu tham vọng của Hoa Kỳ, đặc biệt là trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh (Cold War). Nhưng các nhà lãnh đạo Greenland vẫn luôn kiên quyết từ chối những lời đề nghị này. Từ kế hoạch mua lại đất đến các cuộc đàm phán thiết lập căn cứ quân sự, Greenland đã trở thành một trong những hòn đảo được săn đón nhất trên thế giới.
Hơn năm thập niên đã trôi qua, tuần này hàng loạt các bài báo dòng chính Hoa Kỳ đã đưa ra nghi vấn Nick Út có thể không phải người chụp tấm ảnh biểu tượng cuộc chiến Việt Nam trên các tờ báo lớn Hoa Kỳ: Washington Post, Los Angeles Times, National Catholic Reporter, CBS News, BBC, Vanity Fair... Câu hỏi được chạy dòng tít lớn trên các báo là liệu Nick Út chụp tấm hình, hay một người khác tên là Nghệ Nguyen đã chụp tấm hình này?
Tết năm nay là Tết Ất Tỵ, người ta đón xuân con rắn rắn bò bò trườn trườn mình trên mặt đất, nó không có chân, nhưng lướt mình trong bụi cây, trong hang ổ ngóc ngách nơi rừng cây rậm rạp, nhất là ở các vùng nhiệt đới um tùm, rắn đang lò mò mang mùa xuân tới… rắn đang mang về mùa xuân Ất Tỵ! Hình ảnh con răn có người yêu thích, quấn quanh cổ, quanh người đi chơi, quảng cáo, bán thuốc sơn đông mãi võ, cũng có người ghét bỏ, rùng mình quay đi.
Nước ta có nhiều ngày Tết. Mỗi Tết có một ý nghĩa riêng, có đôi khi theo thói quen của Trung Hoa ngày xưa. Các lễ Tết gồm có: Tết Nguyên Đán ngày Mồng Một tháng Giêng, Tết Hàn Thực vào ngày 3 tháng 3 , Tết Đoan Ngọ ngày 5 tháng 5, Tết Trung Thu ngày 15 tháng 8 và Tết Song Thập ngày 10 tháng 10.
12:05 giờ đêm, từ buổi tiệc Giáng Sinh ở nhà cô bạn thân ra về, một cảm giác ứa nghẹn bất chợt trào lên. Trong khoảnh khắc, tôi thấy mình tắp xe vào bờ đường xa lộ, rồi không thể tự kiềm chế, từng cơn nấc ào đến, nước mắt ràn rụa, tôi khóc như thể vừa hay tin người thân yêu nhất mới qua đời. Cơn òa vỡ đầu tiên này xảy ra vào một đêm cuối tháng 12, khi tôi ở tuổi 46. Thật ra, nhiều ngày, tháng trước đó, mọi giác quan trong người đã phát ra nhiều tín hiệu cảnh báo về một cơn chấn động kéo theo những hoang mang, những trăn trở về ý nghĩa, lẽ sống… Nhưng bận rộn với việc chứng minh bản thân qua nhiều vai trò, trái tim tôi không có chỗ cho cảm xúc lạ, cái đầu coi thường khái niệm “midlife crisis”.
Từ thời xa xưa, con người đã ngước nhìn bầu trời đêm với sự ngưỡng mộ và tò mò. Những ánh sáng lấp lánh trên nền trời đen thẳm không chỉ đóng vai trò như la bàn và lịch, mà còn là nguồn cảm hứng cho thơ ca và nghệ thuật, cho những câu chuyện về các vị thần. Nhưng vào năm 1925, mối quan hệ của con người và những vì sao đã có một bước ngoặt lịch sử. Một nữ khoa học gia trẻ tuổi đã khám phá ra rằng các ngôi sao không phải là những vật thể giống Địa cầu, mà chủ yếu được cấu tạo từ hydro và heli, hai nguyên tố nhẹ và đơn giản nhất trong vũ trụ. Nữ khoa học gia tài năng này tên là Cecilia Payne, 24 tuổi. Phát hiện mới của bà đã đặt nền móng cho ngành vật lý thiên văn học về thiên thể và thay đổi hiểu biết của chúng ta về vũ trụ.
“Đó là sự thật, đó là sự thật”, tiếng kêu gào trong vụ “nhà thơ hiếp nhà thơ” ở Việt Nam, cơ hồ, cũng là tên của vở kịch It’s True, It’s True, It’s True tại Anh, là tiếng thét gào đau đớn của Artemisia Gentileschi trước tòa, trong vụ “họa sĩ hiếp họa sĩ” tại Ý vào thế kỷ 17. [1] Hai vụ, trên hai vùng đất và ở hai thời kỳ hoàn toàn khác nhau, cách xa hơn bốn thế kỷ, nhưng rất gần nhau ở thế cách xã hội đối xử với những nạn nhân mà, nói gọn, là “văn hóa hiếp dâm”: sau khi bị hãm hiếp về thể chất như một phụ nữ, nạn nhân còn tiếp tục bị hãm hiếp về mặt tinh thần như một công dân hay một thành viên của cộng đồng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.