Hôm nay,  

Nhớ Quê

11/02/200300:00:00(Xem: 6221)
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”
Câu ca dao nói lên tâm trạng người con trai một lần cúng giỗ chăng" Dĩ nhiên không phải. Giọng thơ lục bát trải dài theo yêu vận bình, tiết tấu của trầm bình thanh như vang vang ngân đọng trong ta, đưa dẫn ta vào trong cõi nào dìu dịu, lâng lâng, mơ hồ, xa vắng, theo một trầm tư mênh mang, cô tịch, ẩn một ít buồn hiu hắt, nhè nhẹ, xa xa...
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”
Đốt đỉnh hương trầm cho khói lên nghi ngút phải chăng là một hành động cũng giỗ" Nhưng, thường ít ai cúng giỗ về đêm. Và có gì phải nhớ trong một lần cúng giỗ"
Bữa giỗ, ngày cúng, chẳng qua là một lần họp mặt gia đình, sum họp bà con, thường là một cuộc vui ấm cúng, nhưng cũng có thể xảy ra ít nhiều xích mích tị hiềm. Dĩ nhiên có nhớ lại thì cũng không phải là cái nhớ âm thầm, riêng lẻ, cô đơn. Có thể đây là trường hợp một kẻ cô thân lạc loài nơi xứ lạ, ngày giỗ một mình bơ vơ nơi đất khách, nên niềm thương cảm mới mông lung, âm thầm, quạnh quẻ, nỗi nhớ nhung mới hắt hiu, sầu lắng, cô liêu. Giải thích như thế có thể dìu ta vào phiền muộn của thân phận cô đơn, nhưng làm tan biến hết cái thắm thiết của vần lục bát nơi đây, và làm mất hết ý nghĩa cao xa của lời ca dao đơn giản.
‘Đêm qua’, mới đêm qua đây thôi, thời gian còn gần lắm với hôm nay, nhưng không giản dị là thế. ‘Đêm qua’ còn có nghĩa là rất lâu, đã rất lâu rồi, đã nhiều lần lắm, bao nhiêu lần đã qua, và có thể chính là hôm nay; sự việc mãi mãi đi về sống động trong tâm tư, một nguồn cơn bứt rứt không nguôi, một bước đi về tâm thức trong cuộc hành trình ngắn hơn một ‘sát na’ tại thế.
‘Nhớ quê’ đâu phải chỉ một lần, đâu chỉ mới đêm qua, mà đã từng đêm, từng đêm, cứ mỗi lần vào khuya, cứ mỗi lần thao thức. Nhịp điệu đi về của nỗi nhớ niềm thương như một mơ sầu lẽo đẽo khiến thời gian như rút ngắn, cô động lại một lần, vì bao nhiêu lần cũng thế, vì lưu đày nào cũng thế, cho dù đó là thứ lưu đày lãng mạn tự thân, hay lưu đày từ những cơ nguyên trần tục lụy phiền.
Thời gian không còn là thời gian mà biến thể thành tiếng kêu, một tiếng gọi vô ngôn, một hò hẹn không lời, với quá khứ xa xưa, để cảm thức trong hiện tại chính là nỗi trầm mặc u hoài, lắng động, thể hiện một ước mơ, không phải ‘mơ đến’ mà ‘mơ về’ trong tâm tưởng.
Nhạc điệu và tình ý lời thơ khiến từ ‘Đêm qua’ ở đầu câu không còn để chỉ thời gian đúng là thời gian hiện hữu, mà là thứ thời gian nội tại của tâm tư, một thời gian đã hóa thành ngôn ngữ, tức tiếng lòng thổn thức nhớ quê hương, tâm thức bàng hoàng xao động, nửa muốn trốn chạy, nửa muốn đón nhận thực tế phũ phàng vây quanh như những nhức nhối không rời. Chẳng khác nào:
“Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ...”
(Ca dao )
‘Đêm qua’ nơi đây có thể là một lần, một lần duy nhất, mà cũng có thể là nhiều lần miên viễn, từ sơ nguyên trôi về viễn mộng, lần nào cũng vậy, bao nhiêu lần rồi vẫn thế. Từ ‘Đêm qua’ nơi đây cũng chẳng khác gì từ ‘chiều chiều’:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều”
(Ca dao )
“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai...”
(Ca dao )
‘Hương trầm’, hương đốt lên là để gọi hồn về, và trầm đốt lên là để tạo bầu không khí u linh cho hồn ngụ. Hương và trầm đi đôi không đưa ta vào một vùng âm u huyền bí có tính cách phù thủy, không dẫn ta vào địa ngục tối đen thù hận, không đưa ta vào những bon chen tranh chấp thiệt hơn, mà trái lại nâng tâm hồn ta ngan ngát lên cao, mở phơi cả cõi lòng thanh thoát, nhẹ nhàng.
Trong đêm vắng lặng, nhìn một đốm nhang nơi bàn thờ, hay đâu đó – nhưng do ta hay một người ta quen biết thắp – ta cảm thấy một yên bình, một mạnh dạn, một tin tưởng lâng lâng, như có một người thân cận đâu đây, một hình bóng hiền từ đang ở bên ta, nâng niu, dìu dắt, vỗ về, ve vuốt...
Ngửi mùi trầm, đối với người Việt Nam, cũng như người tín đồ Thiên Chúa giáo văng vẳng nghe một điệu thánh ca, ta tự nhiên thấy mình thanh sạch, mơn man trong một niềm vui êm nhẹ.
Nếu có cả hương và trầm, bầu không khí trở nên thi vị, nhiếp dẫn ta vào một trạng thái tâm tư trầm lắng, mơ màng, lâng lâng, dìu đặt, quyện vào trong ta một niềm hoan lạc thanh cao, hòa nhập vào với những hình bóng lãng đãng bao quanh vô cùng thâm mật, vô cùng trìu mến, đang nhìn ta thăm hỏi, đang nhìn ta gởi trao, đang vào trong ta, nâng tâm hồn ta dìu dịu bay bay.
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm...”
Lời thơ êm êm nâng dìu ta vào một mộng mơ dàn trải, sửa soạn cho một hội nhập, hiệp thông nào đó trong mùi trầm thanh khiết giữa màn ẻo lả khói hương. Câu thơ đưa ta vào sống trong bầu không khí tâm linh thanh tĩnh, xa đi mọi xao xuyến, bàng hoàng, khắc khoải, lo lắng, băn khoăn. Ta đang sửa soạn cho mơ, sửa soạn vào mơ, mơ về một cõi xa xưa mà con người hiện tại chỉ là một ‘bán hữu thể’ (le demi-être) luôn luôn hướng vọng đi về tìm lại nguyên sơ tròn đầy thuở trước. Khói hương trầm ru đêm vào tình tự chính là một đáp ứng cho hoài vọng âm thầm, da diết, hằng hữu nơi lòng con người đã (hoặc bị) đánh mất quê hương.
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”
Trong làn khói hương nghi ngút, trong mùi trầm ngào ngạt, lòng con người thoát ra ‘khung cửa hẹp’ bay về cội nguồn nguyên thể, mong tìm về quê hương thời tuổi trẻ, nơi chứa đụng cõi trời ấu thơ, nơi gắn bó đời mình với những thân thương không rời, mà mỗi bước đi xa là một khúc ruột bị chặt lìa, một thứ ‘đoạn trường tân thanh’ muôn đời, miên viễn.
‘Âm thầm nhớ quê’, niềm nhung nhớ không hiện bày trong thực tại, vì giữa cõi đời hiện thể trầm luân, bao buộc ràng giăng mắc cưỡng bức con người phải đoạn tuyệt với suối nguồn tính thể uyên nguyên. Một thoát ly bằng hành động rõ ràng là một tỏ bày khước từ lộ liễu, một nổi loạn với thực tại đang diễn ra, dĩ nhiên sẽ bị phũ phàng dập tắt bởi loạn cuồng của lịch sử đa đoan.
Chính vì thế mà cỗi nguồn chỉ được ghi truyền bằng huyền thoại, thần thoại...; cả cái năng lực của giống dòng, cái tiềm lực tinh thần đành giấu mặt dưới những dạng thức mơ hồ, không rõ nét, cho kẻ thù không bao giờ nhìn thấy, không thể nào tiêu diệt đến tận nguồn tận gốc.
Trạng thái nổi loạn chống lại thời gian hiện hữu, thời gian lịch sử đang bủa giăng trước mắt, biến thành một cảm thức hoài hương luôn luôn âm ỉ trong người, nhưng chỉ hiện bày thực sự vào những giờ thanh vắng nhất, và mượn qua hình thức của tín ngưỡng thông thường: khói hương trầm nghi ngút.
“Năm sau về lại Jérusalem!” Cái tâm thức ‘nhớ quê’ của người Do Thái có thể hiện bày trong những lời cầu nguyện tập thể, và được nói ra rõ ràng như một đoan quyết với lòng mình, vì họ bị lưu đày nơi xứ lạ; còn tác giả câu ca dao lại là kẻ bị lưu đày ngay trên mảnh đất quê hương, nên phải âm thầm trong vắng lặng, phải ra ‘ngõ sau’ – chiều chiều ra đứng ngõ sau – để tránh né mọi dòm ngó, mọi tò mò, theo dõi, vì ngõ trước đầy dẫy những kẻ qua người lại, rộn ràng bao thù nghịch, dáo gươm...
Trang diễm sử đầu tiên đã trở thành hoài vọng, trở thành thứ ‘ước mơ trở về’ tiềm tại nội sinh nơi con người đang chạm trán với bao trở lực bên ngoài tràn tới ra sức dìm chết sức sống của giống nòi, dân tộc, đang phải sống kiếp du mục lang thang giữa dòng trầm luân lịch sử, ngay trên quê hương, mà quê hương mình lại đang trong cảnh lưu đày. Phải đợi vào đêm, phải mượn mùi nhang và hương trầm trong giờ phút tịch liêu đó, nỗi lòng mới hồi phục sắc màu diễm tuyệt của quê hương:
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”
‘Nhớ quê’, quê nào đây" Có phải khu vườn xưa xanh um bóng lá" Có phải mảnh ruộng đồng lúa mạ đơm bông" Có phải mái nhà tranh hay nóc ngói đơn sơ mà nay ta cách biệt" Nếu chỉ thế thì đâu phải đợi vào đêm, trong phút giờ quạnh quẽ, ta mới chạnh lòng vương vấn tâm tư" Có phải ông bà tổ tiên đã mất" Có phải là cha mẹ, anh em hiện nay không còn hoặc đang phải phân ly" Có thể là như thế, nhưng nếu chỉ là thế thôi thì cũng chẳng phải đợi vào đêm, phải đốt hương trầm lên mới nhớ. Vì niềm vọng tưởng ông bà, cha mẹ, anh em hẳn sẽ rộn ràng từng lúc, quặn thắt từng cơn, đâu có trở thành một u hoài lãng đãng mênh mông, như nhạc điệu lời thơ mơn man, trải dài xa vắng: “Đêm qua đốt đỉnh hương trầm...”
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
(Thôi Hiệu – Hoàng Hạc Lâu)
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai")
(Tản Đà dịch)
Cái ‘Quê hương’ Thôi Hiệu nói lên nơi đây không phải cái địa bàn thổ nhưỡng mà chính là cái quê hương thuở nào có hạc vàng cư ngụ, mà nay hoàng hạc đã thiên di. Trong ý nghĩa bài thơ, cái ‘quê hương’ đó chính là ‘hạc vàng’, nghĩa là cái linh hồn, cái tính thể óng mượt xa xưa. Lầu Hoàng hạc còn trơ ra đấy nhưng hạc vàng đã chắp cánh bay xa vì một lẽ oái oăm nào đó để đến nay chỉ còn là ‘Nghìn năm mây trắng’, để người nay quạnh quẻ:
“Ta đứng hoang vu một bóng gầy
Trùng quang sa mạc buốt bờ vai
Nhìn quanh chỉ thấy toàn mây trắng
Ngoảnh lại phiêu bồng mây trắng bay”
(N.T. – Hành Hương)
“Đỉnh đồi mây trắng đi hoang
Bơ vơ bóng nắng trải vàng áo ai
Tóc buồn rủ nhẹ bờ vai
Gió lung lay gọi mười hai bến chờ”
(Huy Phong)
Cái ‘bây giờ mây trắng’ khiến con người tưởng nhớ một cảnh ‘thiên đàng xanh ngát’ nao xưa.
Huy Cận còn đi xa hơn:
“Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

(Trường Giang)
Không đợi hoàng hôn lên mờ mắt biếc tác giả cũng đã thao thức trong lòng tình tự quê hương. Nỗi nhung nhớ triền miên chính là một khát vọng trở về, trở về với quê hương, trở về với mái nhà xưa để tìm nơi cư ngụ bằng an, tìm lại niềm ấm cúng ngày xưa, sống lại những giai điệu ngày xưa mà nay đã mất, nay đang bị người chà đạp tả tơi. Trở về là tìm lại, sống lại thời tuổi mộng nguyên sơ trong một thế giới không sai biệt, không tính toán, đếm đo, chia cắt.
‘Quê hương’, đấy là hình tượng nghệ thuật của muôn đời thi sĩ. ‘Trở lại với quê hương’ không chỉ là một ước vọng, một động lực của hồn thơ mà còn là sứ mạng của họ. Vì hơn ai hết, thi sĩ mới là người cảm nhận được tất cả tan vỡ, đọa đày của cái thế giới sai biệt nầy mà con đường giải thoát chỉ còn là ‘trở lại với quê hương’.
Tiếng thơ của họ là lời cảnh tỉnh, một mời gọi làm lại cuộc đời bằng cách trở về với ‘Ngôi nhà Hằng thể’ (la maison de l’ Être), trở về lại với cái quê hương yêu dấu buổi ban đầu. Dù có nói về tình yêu, cái chết hay cái sống, dù có khóc vì một tan vỡ đau thương, có ca ngợi một thành công cách mạng hay khoa học..., người thi sĩ – đúng là thi sĩ – vẫn muốn nhiếp dẫn mọi người vào ý niệm một thời điểm phục sinh, phục hồi quê hương cũ, một ‘qui hồi cố quận’, cái cố quận không chỉ là một mặt bằng vật lý mà là cái hồn nguyên thể ban sơ, cái ‘bản lai diện mục’ của con người trong cái ‘bản lai đồng’ của vũ trụ càn khôn.
Nhưng hầu như lời họ chẳng ai nghe, nên nhiều khi họ chẳng khác gì con hải âu rã cánh khập khễnh trên boong tàu làm trò vui phút chốc cho thủy thủ ngoài khơi.
“Hải âu phi xứ chập chờn
Cánh bay mỏi rã dỗi hờn bâng quơ”
(Huy Phong)
Nhưng họ vẫn luôn luôn vùng dậy, nối tiếp lời cảnh tỉnh, khẩn khoản mời tất cả trở về với nước non xưa. Cõi nước non xưa cũ đó là buổi bình minh thơ mộng của loài người, là thiên đàng, là niết bàn; cõi nước non chúng hương, hay nước Đức Chúa Trời, mà họ gọi là Quê Hương.
Trong cái quê hương muôn thuở đó, mọi người, mọi vật đều khoác lấy cách thế nào, dù hình tượng, sắc màu nào, thì tất cả vẫn tròn đầy chất ngọc tuổi thơ.
“Chiều tái tạo bâng khuâng từng ngọn cỏ
Hoa thanh quí nở bừng trang diễm sử
Thần tiên đâu về tắm mát sông đào
Ta nghiêng mình làm một trái non cao”
(Đinh Hùng – Mê Hồn Ca)
“Thuở nào em đếm trăng sao
Nghe trong im vắng chút chao đảo buồn
Và nghe tận đáy yêu thương
Đôi chân hạc nhỏ vấn vương sân đình”
(Huy Phong)
Người thi sĩ bình dân chưa lên lời mời gọi mà chỉ mới phát biểu một tâm tư:
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”
Từ ‘quê’ đơn sơ nhưng chứa đựng bao nhiêu tình ý! Nó xem ra còn chứa đựng hơn cả từ ‘quê hương’. Đôi khi được ghép với một từ khác, nó càng thêm ý vị, tình cảm đậm đà: ‘quê ta, quê nhà, quê cha, quê mẹ...’
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều”
(Ca dao)
“Trâu ta ăn cỏ đồng ta
Tuy là cỏ cụt nhưng là cỏ quê”
(Ca dao)
“Hỏi rằng anh ở quê đâu
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà”
(Bùi Giáng–Chào Nguyên Xuân)
“Em hỏi mình quê ở đâu
Mình quê ở dưới bầu trời bao la”
(Thùy Dương Tử)
Từ ‘Quê’ nơi đây có lẽ là cần nên viết hoa. Vì nó không giản dị chỉ một phạm trù không gian vật lý mà trở thành một ‘hồn mộng lênh đênh’, một ‘đò tình’ hò hẹn chuyên chở ta về xứ mộng ban sơ, về ngôi nhà mà xưa kia ta từng sống, thuở đất trời chưa hờn dỗi phân ly.
Âm thanh của từ ‘Quê’ nơi tâm hồn người Việt Nam đậm đà, ấm cúng, thơ mộng và du dương. Nó gợi bao niềm nhung nhớ, bao tình tự đẹp đẻ xa xôi, bao ý tình lãng đãng, phiêu diêu, bao dạt dào cảm xúc. Nó mang chở ta ra ngoài kinh-vĩ-độ của không gian, lội ngược dòng thời gian đến tận cuối chân trời dĩ vãng, nơi đó ta sống lại cái thời xa xưa, trên mê lộ phiêu du tuyệt vời tình mộng, nơi đó ta tìm lại được cái ‘Ta nguyên thủy’.
Không ai trong chúng ta, mỗi khi nhắc đến từ ‘Quê’ trong một câu ca dao hay trong một bài thơ nào đó mà không thấy lòng ngập tràn nhung nhớ, yêu thương; không cảm thấy hồn mình trang trải, mở rộng, thoát ra cảnh đời giới hạn hôm nay để bay bay về một vùng trời tươi mát nên thơ, chỉ có mộng và mơ, màu xanh và sắc biếc trong một sầu tình lắng đọng xa xôi:
“Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa”
(Nguyễn Du – Kiều)
“Hồn quê luống những mơ màng
Bèo mây hợp bến, chim ngàn về hôm”
(Nguyễn Bá Trác)
Chính nơi miền quê đó,
“Tôi thấy lại cả thời tôi tuổi trẻ
Trên đôi môi tôi như một loài chim bé
Sẵn sàng lời cất tiếng hót ca thanh”
(J’ai vu le temps où ma jeunesse
Sur mes lèvres était sans cesse
Prête à chanter comme un oiseau)
(A. de Musset – Nuit de Mai)
Từ ‘Quê’ trong ca dao cũng như trong lời thơ vô cùng quyến rũ, nhưng nó có một âm điệu mênh mang, buồn hiu hắt, chập chờn, vì ‘nhớ lại bao giờ cũng buồn’, vì ‘trở về là để tìm cái gì đã mất’.
Con người chúng ta đã mất quê hương, nghĩa là đã xa lạc uyên nguyên để mãi mãi bị lưu đày trong sai biệt, nên càng đắm chìm trong luân lac, càng hoài vọng ‘miền đất hứa’ xa xưa của buổi đầu hiện hữu.
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm...”
Trên mặt xã hội, tâm lý và chánh trị, từ ‘Quê’ trong văn chương dân gian Việt Nam không chỉ riêng một miền đất nước, một xóm làng, thôn ổ, nơi chôn nhau cắt rốn của mình, mà còn là cái ‘truyền thống quí báu’ đã lưu truyền từ bao thế hệ tổ tiên. Nó (từ Quê) không chỉ diễn đạt một tình cảm mà còn biểu hiện một tài sản, một vốn liếng, một thứ của cải hương hỏa vô cùng quí báu, dấu yêu. Đấy là cái ‘hồn dân tộc’ gắn bó con người với nhau, gắn bó con người với đất nước, non sông, gắn bó con người với lịch sử đọa đày, tỏa chiết, để mỗi con người Việt Nam âu yếm trở về, dù xa xôi cách trở, dù bị sức mạnh nào cản ngăn, hoặc vì một lý do nào cách biệt. Quê nội hay quê ngoại, quê mẹ hay quê cha, tất cả đều là di sản của tiền nhân, bao trùm lên tất cả cái nguồn gốc xa xôi từ khởi thủy của giống nòi.
“Ngó lên mây bạc trời hồng
Dạo miền sơn thủy bẻ bông thái bình”
(Ca dao)
Câu ca dao thơ mộng cho thấy cái không gian sống động, rộng lớn, đẹp tươi, đầy tình gắn bó cùng ước mơ hoài bão của nhân dân. Cái không gian sinh tồn bát ngát đó do đâu mà có" Người bình dân trả lời rất kín đáo, tế nhị:
“Non cao ai đắp mà cao
Sông sâu ai xới ai đào mà sâu"”
(Ca dao)
Câu hỏi chẳng cần đợi trả lời, vì ai chẳng cảm nhận rằng cái ‘non sông’ đó là công nghiệp bền bỉ lâu dài của bao đời tích tụ đến hôm nay. Nhưng cái non sông gấm vóc bao đời công nghiệp cha ông luôn luôn bị dày xéo bởi kẻ bên ngoài, bởi kẻ bên trong, nên người bình dân đau lòng, mượn tiếng hát lời ru ngụ ý nhắc nhở nhau nghe:
“Dù cho cạn lạch Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ không sai tấc lòng”
(Ca dao)
Tấc lòng nào" Dĩ nhiên hình ảnh hiện thực nơi đây là mối tình trai gái, nhưng bên trong chính là cái hồn dân tộc chơi vơi mãi mãi đi về trong tâm tư những con người nặng lòng với đất tổ quê cha.
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm...”
Từ ‘Quê’ quả diễn đạt một ‘trở về’, trở về với ‘quê xưa’, trở về với miền cư ngụ bằng an muôn thuở, trở về với hồn dân tộc tự nguyên sơ; trở về là phải giành lại mảnh đất quê hương đã mất bởi tay người hay bởi tay ai("). Từ ‘Quê’ không riêng chỉ cái gia tài vật chất mà còn là cái gia tài văn hóa từ bao đời kế tiếp đã không hề được lưu ý bảo tồn, phát huy, hoặc vì cái oái oăm lịch sử đã không xây dựng thành ý hệ1, đành phải cam lòng để bàng bạc mông lung, giấu mặt, qua những lời tình truyền miệng nhau nghe. Trở về với nguồn cội, trở về với cuối trời dĩ vãng, để sống trọn cái tinh anh của suối nguồn tinh thể.
Nhưng trở về cũng chính là ‘hướng đến’, vì làm sao trở về với chân trời dĩ vãng, nên ‘trở về’ chính là ý hướng và hành động tái tạo ở cuối trời mơ – mơ về hay mơ đến cũng chỉ là một. Chân trời quá khứ cũng là chân trời viễn mộng trong tâm thức con người bình dân thao thức bắt gặp lại mình trong hữu thể căn nguyên, bắt gặp lại được cái tinh thần dân tộc tinh ròng giờ nầy đang trong cơn đày đọa, được sống lại cái quê hương tròn đầy ân ái. “Rồi Zarathoustra bảo: ‘Tôi là tôi hôm nay của quá khứ nhưng nơi tôi có một cái gì là ngày mai và của ngày mai nữa và của cả tương lai”.2
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”
Câu ca dao đơn sơ, ngọt ngào tình tự, cho thấy cái khắc giờ hội nhập ‘quá khứ – tương lai’ trong cảm thức chàng thi sĩ bình dân, đã phải giấu khuất hướng vọng trở về trước mọi người, mọi kẻ, nên phải chờ đêm vắng, mượn trầm hương nhiếp dẫn tâm tư vào cõi mộng. Tâm thức chàng cũng là tâm thức của dân tộc đối diện với thực tại đất nước bị xéo dày, chà đạp, vừa ru ta vào một hoài vọng mênh mang, vừa mơ màng thao thức hoài hương hướng về Hằng thể.
“Em về mấy thế kỷ sau
Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không"”
(Bùi Giáng)
“Từ ngàn xưa đến ngàn sau
Ai về ai ở ai đào huyệt yêu
Ai nhìn mây nhớ ráng chiều
Nghe trong lặng lẽ áo điều ai bay”
(Huy Phong)
Cái ‘đẹp nguyên màu xưa cũ’ đó có hiện về trong mai sau hay không do từ hôm nay con người có nuôi lòng thao thức:
“Đêm qua đốt đỉnh hương trầm
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê”
(Trần Minh Xuân & Nguyễn Thùy)
1 Xem thêm “Tinh Thần Việt Nam” hay “Việt Nam: Cơn Khổ Nạn Sinh Thành”, cùng tác giả, Mekong-Tynan xuất bản, San Jose, Bắc California, 1992.
2 “Je suis d’aujourd’hui de jadis mais je sens en moi quelque chose de demain, de l’après demain et de l’avenir”. – F. Nietzche, Ainsi parlait Zarathoustra (bản dịch Pháp ngữ của Maurice Betz, coll. Le Livre de poche).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tấm bảng treo trước cửa văn phòng số H-1127 trong tòa nhà Longworth House Office Building dành cho các dân biểu liên bang Quốc Hội khóa 119 vừa gắn tên một người gốc Việt, Derek T. Tran – California. Đó là kết quả của cuộc đua nghẹt thở giữa một cựu quân nhân, luật sư gốc Việt và một dân cử đương nhiệm của địa hạt 45, California. Luật sư Derek Trần đã kết thúc cuộc đua bằng buổi tuyên thệ tại Capitol Hill chiều Thứ Sáu 3/1/2025, cũng là ngày Quốc Hội bầu chủ tịch Hạ Viện mới.
Mùa xuân mang lại nhiều thay đổi. Thay đổi của đất trời và của cả lòng người. Tuyết tan đi và mưa lũ ngừng rơi trên ngàn lá. Lộc non đâm chồi. Trăm sắc hoa đua nhau nở rộ. Chào đón tết. Tết không riêng ở sự thay đổi khí hậu. Tết đem mưa dịu, gió hòa mang hơi ấm mùa xuân. Mùa hy vọng trở về. Hy vọng một năm mới an vui hơn… theo sự tuần hoàn của vũ trụ, nghĩa là xuân đến, xuân lại về, xuân về theo lời mời gọi và chào đón của nhân sinh. Xuân về phơi phới, vui và hy vọng, kể từ đầu tháng chạp (12) tới đầu tháng giêng (1/2025) con rồng hình ảnh cao to, vĩ đại và mang nhiều biểu tượng thiêng liêng, tưởng tượng, mơ hồ đến có lúc như thần thoại mơ hồ, dị đoan.
Cựu Tổng thống Jimmy Carter vừa qua đời hôm 29/12/2024, hưởng thọ 100 tuổi. Hai năm qua ông trong tình trạng sức khoẻ yếu và được gia đình chăm sóc. Phu nhân của ông là bà Rosalyn Carter đã mất ngày 19/11/2023. Jimmy Carter là tổng thống thứ 39, lãnh đạo Hoa Kỳ từ 1977 đến 1981.
Từ thời xa xưa, con người đã tìm cách phát hiện sự gian dối thông qua các phản ứng sinh lý của cơ thể. Ở TQ cổ đại, nghi phạm sẽ bị ép ngậm một miệng đầy gạo sống trong khi thẩm vấn, sau đó phải há miệng để kiểm tra. Nếu gạo trong miệng vẫn còn khô, thì tức là do miệng của nghi phạm bị khô, có thể là do căng thẳng, lo sợ – một dấu hiệu của tội lỗi. Trong một số trường hợp, dấu hiệu này đủ để dẫn đến án tử hình. Quan niệm rằng việc nói dối có thể gây ra những phản ứng vật lý có thể quan sát được đã tồn tại trong suốt nhiều thế kỷ. Vào những năm 1920, khi Hoa Kỳ phải đối mặt với làn sóng tội phạm bùng nổ trong thời kỳ Cấm đoán (Prohibition). Trong thời kỳ này, các băng nhóm tội phạm buôn lậu rượu mọc lên như nấm sau mưa, chỉ riêng Chicago đã có 1,300 băng đảng. Một khoa học gia tin rằng mình đã tìm ra phương pháp khoa học để phát hiện kẻ nói dối
Vào tháng Tư năm nay, một nhóm các khoa học gia và kỹ sư đã thực hiện một chuyến bay trên vùng trời phía bắc Greenland để thử nghiệm tính năng của một thiết bị radar tiên tiến. Khi đang cách Căn cứ Không gian Pituffik khoảng 150 dặm về phía đông, Chad Greene, khoa học gia thuộc phòng thí nghiệm Jet Propulsion Laboratory (JPL) của NASA, đã chụp lại hình ảnh của vùng tuyết mênh mông, trắng xóa bên dưới. Cùng lúc đó, radar phát hiện điều bất thường ẩn bên dưới lớp băng: một căn cứ quân sự từ thời Chiến tranh Lạnh đã bị bỏ hoang, được gọi là Camp Century.
Ngày này năm 1943 - Tướng Dwight D. Eisenhower được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh Lực lượng viễn chinh Đồng minh chuẩn bị cho Ngày D-Day Chiến dịch Overlord, hay Cuộc tập trận Hornpipe, là mật danh của Trận Normandie, một chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội Đồng Minh tại miền Bắc nước Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Overlord được mở màn vào ngày 6 tháng 6 năm 1944 bằng các cuộc đổ bộ lớn vào các bãi biển ở vùng Normandie, có mật danh là Chiến dịch Neptune (Ngày D). Đây là chiến dịch tấn công từ biển vào đất liền lớn nhất trong lịch sử, với sự góp mặt của hơn 1.200 máy bay, hơn 5.000 tàu chiến các loại và gần 160.000 binh lính Đồng Minh tham gia đổ bộ trong ngày đầu tiên, tức ngày 6 tháng 6 năm 1944, và có hơn 2.000.000 binh lính Đồng Minh đã có mặt tại Pháp tính đến thời điểm cuối tháng 8 năm 1944.
Trang trí lễ giáng sinh hoàn tất - cây thông được cắt tỉa gọn gàng, những chiếc tất treo lủng lẳng trên bệ lò sưởi và—khoan đã, cái cây có quả màu trắng treo lủng lẳng trên trần kia là gì vậy? Tại sao mọi người lại trở nên tình tứ khi đứng dưới nó? Cây Mistletoe (hay cây tầm gửi), một loài cây ký sinh, thực sự đã quen với việc "lơ lửng" trên không trung vì trong tự nhiên, nó chỉ mọc trên các cành cây khác, hay lủng lẳng treo gửi thân mình cho cây khác. Loài cây này từ lâu đã gắn liền với sức mạnh huyền bí: Trong thần thoại Bắc Âu, thần Balder bị giết nhầm bởi một mũi tên làm từ tầm gửi—sau đó, loài cây này trở thành biểu tượng cho tình yêu bất diệt của người mẹ đau buồn.
Năm 2024 chào đón hàng loạt phát hiện thú vị trong nhiều lĩnh vực khoa học, không chỉ trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) và điện toán mà còn trong các lĩnh vực sinh học và y tế. Sau đây là bảy thành tựu y tế nổi bật trong năm nay, phản ánh những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực y học, đem lại hy vọng cho hàng triệu người trên khắp thế giới.
Còn vài tuần nữa, chúng ta sẽ kết thúc năm dương lịch, 2024. Một năm đủ dài để chúng ta không thể nhớ nổi những chuyện quan trọng đã xảy ra hoặc nhớ một cách lẫn lộn, mơ hồ. “Hôm qua chỉ là ký ức của hôm nay, và ngày mai là giấc mơ.” Nhà thơ Khalil Gibran đã nói. 2024 trờ thành lý ức và 2025 tiến hành giấc mơ. Không có quá khứ thì không có tương lai, vì vậy, hãy sử dụng trải nghiệm những vui buồn năm 2024 để tạo thực tế hơn một giấc mơ 2025 phong phú. Trong lãnh vực cộng đồng, đối với người Việt tại Mỹ, có lẽ cuộc tranh cử tổng thống vừa qua là chuyện ảnh hưởng nhiều nhất. Cựu tổng thống Trump đắc cử, kéo theo bao nhiêu hân hoan, sung sướng của nhóm người Việt phò Trump, và tạo ảm đạm, buồn bã cho nhóm người Việt chống Trump. Một hậu quả rõ rệt là phò Trump, chống Trump đã gây xáo trộn tâm lý và tình cảm cho một số người quá khích. Giận nhau, ghét nhau, bỏ nhau, gạt chân, thúc cùi chỏ, vân vân, không chỉ người ngoài đường mà còn ra tay với người nhà, với bà con thân thuộc.
Nếu nghĩ về năm 2024 là một năm “rất thanh nhã, lịch lãm” quý vị không hề đơn độc. Dictionary.com vừa công bố từ “demure” là từ của năm (word of the year) 2024; sự lựa chọn này chủ yếu được ảnh hưởng từ một đoạn clip nổi tiếng trên mạng xã hội do người dùng TikTok ở Hoa Kỳ Jools Lebron tạo ra. Vào đầu tháng 8, Lebron, một phụ nữ chuyển giới và là nhà sáng tạo nội dung (content creator) đến từ Chicago, đăng tải một đoạn clip ngắn ghi lại cảnh cô ngồi trong xe và nói về cách trang điểm của mình trước khi đi làm. Trong clip, cô nói: “Quý vị thấy cách tôi trang điểm đi làm không? Rất từ tốn, rất đơn giản... Tôi không tô vẽ lòe loẹt. Không làm gì quá lố. Quý vị thấy tôi thanh nhã, lịch lãm không? Cách tôi đến buổi phỏng vấn cũng chính là cách tôi đi làm.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.