Sonnet | Đối Thoại

10/06/202200:00:00(Xem: 4505)

Từ trái Cung Tiến Doãn Quốc Sỹ Trần Dạ Từ Nguyễn Xuân Nghĩa
Cung Tiến và bạn văn nghệ sĩ: Cung Tiến, Doãn Quốc Sỹ, Trần Dạ Từ, Nguyễn Xuân Nghĩa, tòa soạn Việt Báo, 2019, Westminster

Cung Tiến là một tên tuổi lớn của âm nhac Việt Nam, nhưng ông cũng là một tác giả có nhiều đóng góp vào hai mươi năm văn học miền Nam và văn học hải ngoại. Vào những thập niên 1950 và 1960, với bút hiệu Thạch Chương, Ông đã sáng tác, nhận định và phê bình văn học, cũng như dịch thuật, cho các tạp chí Sáng Tạo, Quan điểm, và Văn. Hai trong số các truyện ngắn ông dịch và xuất bản ở Việt Nam là cuốn Hồi ký Viết Dưới Hầm của Dostoievsky và cuốn Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovitch của Solzhenitsyn.

Mời đọc lại hai bài thơ Thạch Chương viết thời ông ở tuổi đôi mươi.



*** 

SONNET

Thạch Chương

 

Như những tiếng cầu xin cứu vớt linh hồn chúng tôi

ngoài khơi bí mật đến tự một con tàu biển;

qua những mảnh danh từ dệt nên hồn mầu nhiệm

em vẫn chỉ là tóc mây cổ nõn và môi.

 

Sau áo len danh từ là thế giới xa vời,

là đêm không trăng sao là trùng dương thăm thẳm;

qua những chuỗi ngọc cười, em vui nước mất đẫm

vai anh, em buồn. Đêm hồn anh dài không nguôi.

 

-- Kèn đồng xin loa vang đạp những thành kia xuống!

bóp nghẹt tiếng cười, và xin khô héo đôi môi;

 

yêu, thương, sầu, nhớ. Hãy vượt qua thành hiện tượng,

soi mặt trời mắt em,  để tôi chiêm ngưỡng

hình tôi.

 

***

ĐỐI THOẠI

 

nhân vật

 

Sáng khuya đô thị hai giờ

Những mớ tóc yêu tinh xòa ngõ hẻm

Những bước chân giầy rộn rã

Rộn rã trong tim

căng thẳng. Và những điểm lập lòe thuốc lá

Rồi rộn rã. Rồi câm im

Rồi những thì thầm nhày nhụa

Nhưng trên kia là giải ngân hà như lụa

 

đôi mắt

 

Và chúng nó làm đầy khối không gian nhỏ

Bằng đủ loại hơi hữu cơ

Cười phì hơi dạ dày tròm mồm

Ngày dại điên cuồng bệnh hoạn là

những cặp mắt sờ

da thịt em tàn nhẫn

Ngạo nghễ như thiên thần

Em thuộc về anh em không thuộc

về chúng nó

Em đoán – bằng và qua đôi mắt

Bằng sự vắng mặt của anh

Rằng có thể người ấy vừa nhắm mắt

Hoặc có thể đang nằm bệnh viện hoặc

có thể có thể chẳng có gì

Nhưng một sự thật em chắc chắn

là em muốn cắn anh vì sự

anh thờ ơ

 

nhân vật

Đôi mắt dịu ăn-sâu-vào-trái-tim

theo đuổi chập chờn như một sợ hãi

Những cửa sổ đen ngòm thì thầm

Kể lể những sa đọa thường xuyên

Chứng kiến ở mỗi

sáng khuya đô thị hai giờ

Cột đèn nghiêm trang sao không nói

Cây reo lãnh đạm sao không nói

Và cầu dài câm bóng nhà cao đổ

im lìm và vườn và vườn hoa và ghế dài và

thềm nhà và

Tại sao không nói. Xin

cúi đầu van lạy đừng ruồng bỏ

Bởi biết rằng sáng mai khi mặt trời

về các người sẽ

thân yêu và tha thứ

 

đôi mắt

Em thề em không thuộc về chúng nó

Thương hại những mớ tóc vàng

mềm óng bồng bềnh gió biển là những

thủy thủ Noel lần đầu bến lạ

Và môi ngạc nhiên nhạo báng vô tư

Bởi những sợi tóc giả những cánh tay già

Quàng xiết bằng một đam mê lạnh

Những con mắt bốc hơi những bụng tròn

Không thở những thuốc lá quên hút

những toan tính nhày nhụa

và vải bàn trắng rượu đỏ lênh láng những

-- Chắc nền nhà đang lung linh

Mẹ và các em đang cầu kinh

Thân thể em biết phút này thôi không huyền

diệu nữa phải không anh

Nhưng còn anh em biết em

sẽ cắn anh vì sự anh thờ ơ

 

nhân vật

Cửa sổ đen ngòm cười mai mỉa

Đường âm tiếng giày khô

Nhạo báng

Và trên kia là giải ngân hà như lụa

Sao rơi vào mắt vào tâm hồn như mưa

Phố rỗng. Cây vắng mặt. Cột đèn bỏ quên

Hai điểm sáng long lanh tinh nghịch cầu xin

làm nhói trái tim

Trên cầu bóng loạng choạng

một thủy thủ già trên môi vừa chết đi

khúc ca chiến thắng của bản năng

Không không trăm lần không

Và sương này mưa lò cửa sổ

Gối trắng mờ sáng – đêm – chờ đợi thân yêu

Bàn ghế hòm tủ sách vở chạy sô êm đềm thăm hỏi

Và những trang vàng

Và tận cùng một quyển sách là

điểm mong manh m-ột chân lý

 

XII-58 Sydney

Thạch Chương

 

*Tài liệu từ facebook.com/huyvespa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thiên Lý Độc Hành, là tựa một tập thơ của Thầy, và cũng là bốn chữ được viết treo trên hương án của Thầy tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, nơi Thầy ở vào những năm tháng cuối đời. Thiên lý độc hành, hình ảnh biểu trưng nhất về Thầy Tuệ Sỹ, muôn dặm cô lữ dằng dặc nỗi ưu tư phận nhà vận nước…Và, khó làm sao để tường tận cái chấp chới của vạt áo tỳ khưu đẫm ánh trăng đêm, thấp thoáng ẩn hiện Người và cõi thơ tịnh tĩnh. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở/ Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan... Hỏi, tại sao, vì đâu, lòng muối kiên định... để bất khuất chưa tan?
Tháng tư nắng quái trên tàng lá / Ngày nóng rang, khô khốc tiếng người / Nước mắt ướt đầm trên mắt mẹ / Nghìn đêm ai khóc nỗi đầy vơi? / Tháng tư em dắt con ra biển / Hướng về nam theo sóng nổi trôi / Thôi cũng đành, xuôi triều nước lớn / Làm sao biết được, trôi về đâu?
Dù đứng bên bờ vực của tận diệt, con người vẫn có thể cứu chuộc chính mình bằng ngôn từ và ký ức, đó là tinh thần của giải Nobel Văn Chương năm nay. Trong ánh sáng của niềm tin, Việt Báo đăng lại bài thơ “Hãy để nước Mỹ lại là nước Mỹ” của Langston Hughes – một khúc ca vừa đau đớn vừa thiết tha, viết gần một thế kỷ trước, mà như viết cho thời đại ngày nay. Giấc mơ Hughes gọi tên lại vang lên – giấc mơ về một xứ sở nơi lời hứa của nước Mỹ là hơi thở chung của những người cùng dựng lại niềm tin vào công lý, vào tự do, vào chính con người.
Đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp, nhất là trong tập Tôi Cùng Gió Mùa, nếu cho là chủ quan, tôi vẫn nói rằng, Khí thơ của Nguyễn Xuân Thiệp là khí thu. Trăng ở thơ đó là trăng thu. Gió ở thơ đó mang cái hắt hiu thu. Không biết tại sao, chỉ thấy Khi đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp tôi lại liên tưởng đến cảm xúc của Trương Trào trong U Mộng Ảnh xưa: “Thơ và văn được như cái khí mùa thu thì là hay.”. Nguyễn Xuân Thiệp, xuất hiện lần đầu tiên trên dòng thơ của văn học miền Nam Việt Nam vào năm 1954 trên Thẩm Mỹ Tuần Báo với bài thơ Nhịp Bước Mùa Thu. Bài thơ tính đến lúc này là 71 năm -tiếng thở dài một đời người-, hôm nay tôi đọc lại, cảm xúc vẫn bị lay động bởi hình ảnh u buồn của lịch sử vào thời gian xa xăm đó.
Nguyên Yên, một trong những nhà thơ đương đại nổi tiếng ở hải ngoại. Cô chưa in một tập thơ nào, chỉ xuất hiện trên một số trang web như Việt Báo, Văn Việt, Hợp Lưu, Blog Trần thị Nguyệt Mai, Phố Văn… Ngoài những bài viết về thời sự, bình luận ký tên thật Nina Hòa Bình Lê với cái nhìn sắc bén và nhân ái, người đọc còn được biết đến Thơ của cô, với bút danh Nguyên Yên. Một tiếng thơ gây ngạc nhiên bởi ý tưởng, hình ảnh độc đáo, giản dị, mạnh mẽ, trữ tình. Tôi thực sự bị dòng thơ này lôi cuốn.
Theo đại thi hào R.Tagore "Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong". Theo tác giả cổ đại Ovid (khoảng năm 43 trước Công Nguyên) thì: “Có ít nhiều sự thoải mái trong cơn khóc”. Thi sĩ Colley khẳng định: “Lời nói để khóc và nước mắt để nói” Thi sĩ người Pháp Alfred de Musset có câu thơ: “Cái duy nhất còn lại cho tôi ở trên đời/ Chính là những lúc đã đôi lần nhỏ lệ”. Thi sĩ người Anh Robert Herrick: “Giọt lệ chính là ngôn ngữ cao quý của đôi mắt” .Nhà thơ trẻ Nepal, Santosh Kalwar tâm sự: Tôi đã mỉm cười ngày hôm qua. Tôi đang mỉm cười ngày hôm nay và khi ngày mai đến, tôi sẽ mỉm cười. Vì đơn giản, cuộc sống quá ngắn để ta khóc về mọi thứ – Và ai đó đã cho rằng: Không có gì đẹp hơn một nụ cười đã trải qua những giọt nước mắt.
Trong tập Bốn Mùa Trời và Đất, Márai Sándor cảm giác về mùa hè, …Tôi đứng trên ban công, giữa một vùng xanh, nghe tiếng rì rào thức dậy của cây cỏ. Mùa hè đây rồi, tôi nghĩ; và nó giống như một cảm xúc tràn ngập trong tôi, không khoan nhượng, và đầy những kỷ niệm giản dị… (Giáp Văn Chung dịch) Trong tản văn Hoa Nở Vì Ai, Vũ Hoàng Thư viết, …Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm… Và mùa hè trong truyện của Đặng Thơ Thơ, … Đó là lúc chín nhất của mùa hè. Những trái táo bắt đầu căng mật. Từ trong lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm...Ở Cảnh Nhàn của Bạch Vân Cư Sĩ có thú sống, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…, có lẽ thời của người, nước còn trong ao còn sạch.
Bạn đang nghe thấy gì trong khí hậu tháng Tư? / Tiếng kêu từ đáy huyệt cuối trời. / Tiếng gió xoáy những cột cờ tử thương tuẫn tiết. / Tiếng phố vỡ triệu mảnh thủy tinh cắt lồng ngực tháng tư rỉ máu mãi chưa khô. / Tiếng sóng hôi dao mùi hải tặc từ oan nghiệt một thời biển huyết. / Tiếng oan hồn dật dờ tìm về cố quận, đáy vực kia bầy cá hoang tảo mộ. / Tiếng hậu chấn từ tâm hồn con dân tháng Tư choàng lên thảng thốt. Dấu chàm xanh lưu xứ để nhận ra nhau. / Tiếng con bướm gáy trong giấc ngủ đôi bờ chiến tuyến. / Tiếng vô vọng của dòng thơ đớn đau, sỉ nhục trải dài trên đất đai tổ quốc. /Tiếng mong mỏi trên những dòng thơ đang vuốt mắt lịch sử, xin hãy chết yên, chết quên, và mở lòng ra ôm những vết thương, trồng lại bóng Quê Nhà…
“Chìm trong biển chết trôi tim người / Còn gì đâu tiếc thương xa xôi …” Chiếc tàu nhỏ rời bến Constantine, Algeria, chở Enrico Macias đến một nơi xa lạ, người lưu vong không bao giờ được phép trở về. Làm sao cánh chim di có thể quên lối cũ? Chiến tranh xua đuổi ông ra khỏi quê nhà. Tàu khởi hành không một người đưa tiễn. “Người tình ơi, ta xa nhau. Mượn đôi mắt em lên đường.” Với cây guitar làm hành trang, ông ghi lại, “J'ai quitté mon pays …”
Hãy tạm để những chuyện buồn nằm im dưới mâm cỗ ngày Tết, để ta chỉ được thấy màu xanh lá bánh chưng, màu đỏ ối ruột dưa hấu, màu vàng đỏ tung xòe trong những bao lì xì nhỏ, màu nắng chín nhấp nháy trên những trái quất… bây nhiêu đó có đủ để bạn đón hơi thở mới của đất trời? Hy vọng vậy để chúng ta được mọc lên như cỏ non trên khung rêu ngày tháng cũ. Bài thơ của Nguyễn Hồng Kiên tôi đọc được từ trang của trường Mầm Non Cự Khối, bài thơ được dạy cho các em lứa 4 tuổi, như một lời chúc tết hồn nhiên.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.