Mậu Thân

03/02/202300:00:00(Xem: 4227)
Mau-Than
Phan Nhật Nam tại Lễ Tưởng Niệm 40 Năm Mậu Thân tại Việt Báo Gallery, 2008

 

Chúng giết người vào buổi sớm mai

Sáng Mồng Hai, ngày Tết

Chúng giết người không ghê tay,

không giấu mặt.

Những hàng xóm, phố xưa quen biết lâu dài,

chung tộc họ, tính danh, gia cảnh

Chúng giết người bởi quyết tâm định sẵn

"Đường vinh quang xây xác quân thù

Lềnh loang màu cờ thẫm máu. (1)

 

Chúng giết trẻ thơ

giữa sân trường, nơi lớp học.

Chúng giết mẹ thương khó tảo tần lưng nặng,

nuôi con thay chồng đóng đồn,

phận lính khổ Nghĩa Quân.

Chúng giết Thầy ta,

Trưởng Gà Hùng Biện (2)

Dạy kẻ thiếu niên nên Điều Thiện, tròn việc tốt mỗi ngày.

 

Chúng trói siết chặt thân

Chúng đập dập nát đầu

Bác Sĩ hiền nhân, lương y từ mẫu

Quy tội danh dạy Đại Học Y Khoa

Quốc tịch phản động Cộng Hòa Liên Bang Đức (3)

Chúng giết người dậy sôi men vọng âm sâu độc

Gọi là "thơ"...

Đêm Giao Thừa,

Bắc Bộ Phủ truyền lệnh tấn công (4)

 

Hãy đốt đuốc lên!

Hãy đốt đuốc lên!

Đào xuống huyệt nông bốn mươi năm xưa lấp vội

Tìm kiếm sọ đầu con vỡ tung lưỡi búa!

Hãy đốt đuốc lên!

Hãy đốt đuốc lên!

Vét suối, phá rừng

Vuốt xếp gọn lọn tóc em tuổi hai-mươi chôn sống

 

Sợi xanh biếc thảm thiết mọc dài

(dưới lường sâu ngàn dép lốp dậm chân nén chặt)

Vẫy vùng, bập bùng, dẫy dụa...

Đòi được thở

Đòi được sống

Em ơi!

 

Mậu Tuất năm nao giỗ ngõ Âm Hồn (5)

Mậu Thân ngày nầy linh, vong thất lạc

Đối mặt chết, bé sợ rung nín khóc

Mẹ che con hứng nhát cuốc hờn oan

Âm cắm sâu thịt người

Dội tầng tầng mạch đất

Xuyên suốt cõi âm ty

Rúng động mười cửa ngục

 

Hồn người chết oan không biết đường về (6)

Đất lưu vong nhớ đuốc chiêu hồn

"Mỗi lần hoàng hôn,

ta đốt lửa người ta tới trước" (7)

Hồn hỡi hồn..

Hồn uất hận nơi đâu!

 

Tại sao chúng giết người?

Tai sao chúng đành đoạn giết Con Người?

Em em ơi và Huế Huế ơi!

 

Phan Nhật Nam

 

Thơ viết ngày 29 tháng Ba, 2008

Đọc tại Lễ Tưởng Niệm 40 Năm Mậu Thân

Với Giải Khăn Sô Cho Huế - Nhã Ca

 

 

(1) Bài hát Tiến Quân của cộng sản Hà Nội

(2) Trưởng Trần Điền, Ủy Viên Trung Ương Hội Hướng Đạo Việt Nam

(3) Các Bác Sĩ Alterkoster, Discher, và Krainick người Tây Đức

(4) "Thơ Chúc Tết" của HCM đêm Giao Thừa Mậu Thân là lệnh tấn công.

(5) Ngõ Âm Hồn, Thành Nội Huế, miếu cúng vong linh

    trong biến cố Thất Thủ Kinh Đô, 1918

(6) Lời Nhã Ca kể trong bài nói chuyện về "Sự Thật Mậu Thân".

(7) Thơ Thanh Tâm Tuyền

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thiên Lý Độc Hành, là tựa một tập thơ của Thầy, và cũng là bốn chữ được viết treo trên hương án của Thầy tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, nơi Thầy ở vào những năm tháng cuối đời. Thiên lý độc hành, hình ảnh biểu trưng nhất về Thầy Tuệ Sỹ, muôn dặm cô lữ dằng dặc nỗi ưu tư phận nhà vận nước…Và, khó làm sao để tường tận cái chấp chới của vạt áo tỳ khưu đẫm ánh trăng đêm, thấp thoáng ẩn hiện Người và cõi thơ tịnh tĩnh. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở/ Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan... Hỏi, tại sao, vì đâu, lòng muối kiên định... để bất khuất chưa tan?
Tháng tư nắng quái trên tàng lá / Ngày nóng rang, khô khốc tiếng người / Nước mắt ướt đầm trên mắt mẹ / Nghìn đêm ai khóc nỗi đầy vơi? / Tháng tư em dắt con ra biển / Hướng về nam theo sóng nổi trôi / Thôi cũng đành, xuôi triều nước lớn / Làm sao biết được, trôi về đâu?
Dù đứng bên bờ vực của tận diệt, con người vẫn có thể cứu chuộc chính mình bằng ngôn từ và ký ức, đó là tinh thần của giải Nobel Văn Chương năm nay. Trong ánh sáng của niềm tin, Việt Báo đăng lại bài thơ “Hãy để nước Mỹ lại là nước Mỹ” của Langston Hughes – một khúc ca vừa đau đớn vừa thiết tha, viết gần một thế kỷ trước, mà như viết cho thời đại ngày nay. Giấc mơ Hughes gọi tên lại vang lên – giấc mơ về một xứ sở nơi lời hứa của nước Mỹ là hơi thở chung của những người cùng dựng lại niềm tin vào công lý, vào tự do, vào chính con người.
Đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp, nhất là trong tập Tôi Cùng Gió Mùa, nếu cho là chủ quan, tôi vẫn nói rằng, Khí thơ của Nguyễn Xuân Thiệp là khí thu. Trăng ở thơ đó là trăng thu. Gió ở thơ đó mang cái hắt hiu thu. Không biết tại sao, chỉ thấy Khi đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp tôi lại liên tưởng đến cảm xúc của Trương Trào trong U Mộng Ảnh xưa: “Thơ và văn được như cái khí mùa thu thì là hay.”. Nguyễn Xuân Thiệp, xuất hiện lần đầu tiên trên dòng thơ của văn học miền Nam Việt Nam vào năm 1954 trên Thẩm Mỹ Tuần Báo với bài thơ Nhịp Bước Mùa Thu. Bài thơ tính đến lúc này là 71 năm -tiếng thở dài một đời người-, hôm nay tôi đọc lại, cảm xúc vẫn bị lay động bởi hình ảnh u buồn của lịch sử vào thời gian xa xăm đó.
Nguyên Yên, một trong những nhà thơ đương đại nổi tiếng ở hải ngoại. Cô chưa in một tập thơ nào, chỉ xuất hiện trên một số trang web như Việt Báo, Văn Việt, Hợp Lưu, Blog Trần thị Nguyệt Mai, Phố Văn… Ngoài những bài viết về thời sự, bình luận ký tên thật Nina Hòa Bình Lê với cái nhìn sắc bén và nhân ái, người đọc còn được biết đến Thơ của cô, với bút danh Nguyên Yên. Một tiếng thơ gây ngạc nhiên bởi ý tưởng, hình ảnh độc đáo, giản dị, mạnh mẽ, trữ tình. Tôi thực sự bị dòng thơ này lôi cuốn.
Theo đại thi hào R.Tagore "Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong". Theo tác giả cổ đại Ovid (khoảng năm 43 trước Công Nguyên) thì: “Có ít nhiều sự thoải mái trong cơn khóc”. Thi sĩ Colley khẳng định: “Lời nói để khóc và nước mắt để nói” Thi sĩ người Pháp Alfred de Musset có câu thơ: “Cái duy nhất còn lại cho tôi ở trên đời/ Chính là những lúc đã đôi lần nhỏ lệ”. Thi sĩ người Anh Robert Herrick: “Giọt lệ chính là ngôn ngữ cao quý của đôi mắt” .Nhà thơ trẻ Nepal, Santosh Kalwar tâm sự: Tôi đã mỉm cười ngày hôm qua. Tôi đang mỉm cười ngày hôm nay và khi ngày mai đến, tôi sẽ mỉm cười. Vì đơn giản, cuộc sống quá ngắn để ta khóc về mọi thứ – Và ai đó đã cho rằng: Không có gì đẹp hơn một nụ cười đã trải qua những giọt nước mắt.
Trong tập Bốn Mùa Trời và Đất, Márai Sándor cảm giác về mùa hè, …Tôi đứng trên ban công, giữa một vùng xanh, nghe tiếng rì rào thức dậy của cây cỏ. Mùa hè đây rồi, tôi nghĩ; và nó giống như một cảm xúc tràn ngập trong tôi, không khoan nhượng, và đầy những kỷ niệm giản dị… (Giáp Văn Chung dịch) Trong tản văn Hoa Nở Vì Ai, Vũ Hoàng Thư viết, …Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm… Và mùa hè trong truyện của Đặng Thơ Thơ, … Đó là lúc chín nhất của mùa hè. Những trái táo bắt đầu căng mật. Từ trong lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm...Ở Cảnh Nhàn của Bạch Vân Cư Sĩ có thú sống, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…, có lẽ thời của người, nước còn trong ao còn sạch.
Bạn đang nghe thấy gì trong khí hậu tháng Tư? / Tiếng kêu từ đáy huyệt cuối trời. / Tiếng gió xoáy những cột cờ tử thương tuẫn tiết. / Tiếng phố vỡ triệu mảnh thủy tinh cắt lồng ngực tháng tư rỉ máu mãi chưa khô. / Tiếng sóng hôi dao mùi hải tặc từ oan nghiệt một thời biển huyết. / Tiếng oan hồn dật dờ tìm về cố quận, đáy vực kia bầy cá hoang tảo mộ. / Tiếng hậu chấn từ tâm hồn con dân tháng Tư choàng lên thảng thốt. Dấu chàm xanh lưu xứ để nhận ra nhau. / Tiếng con bướm gáy trong giấc ngủ đôi bờ chiến tuyến. / Tiếng vô vọng của dòng thơ đớn đau, sỉ nhục trải dài trên đất đai tổ quốc. /Tiếng mong mỏi trên những dòng thơ đang vuốt mắt lịch sử, xin hãy chết yên, chết quên, và mở lòng ra ôm những vết thương, trồng lại bóng Quê Nhà…
“Chìm trong biển chết trôi tim người / Còn gì đâu tiếc thương xa xôi …” Chiếc tàu nhỏ rời bến Constantine, Algeria, chở Enrico Macias đến một nơi xa lạ, người lưu vong không bao giờ được phép trở về. Làm sao cánh chim di có thể quên lối cũ? Chiến tranh xua đuổi ông ra khỏi quê nhà. Tàu khởi hành không một người đưa tiễn. “Người tình ơi, ta xa nhau. Mượn đôi mắt em lên đường.” Với cây guitar làm hành trang, ông ghi lại, “J'ai quitté mon pays …”
Hãy tạm để những chuyện buồn nằm im dưới mâm cỗ ngày Tết, để ta chỉ được thấy màu xanh lá bánh chưng, màu đỏ ối ruột dưa hấu, màu vàng đỏ tung xòe trong những bao lì xì nhỏ, màu nắng chín nhấp nháy trên những trái quất… bây nhiêu đó có đủ để bạn đón hơi thở mới của đất trời? Hy vọng vậy để chúng ta được mọc lên như cỏ non trên khung rêu ngày tháng cũ. Bài thơ của Nguyễn Hồng Kiên tôi đọc được từ trang của trường Mầm Non Cự Khối, bài thơ được dạy cho các em lứa 4 tuổi, như một lời chúc tết hồn nhiên.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.