Thơ: Bé

19/04/200500:00:00(Xem: 8499)
LTS. Nhà văn, nhà thơ Phan Nhật Nam gửi bài thơ này tới tòa sọan với ghi chú sau: Trong dịp tháng 4/2005, báo chí có đăng bài viết “Em Tôi – Tự sự của Phan Nhật Nam” được bạn đọc khắp nơi đọc với lòng cảm xúc. Xin cảm ơn tất cả với lời minh xác, rằng bài viết kia là của Người Bạn Lặng Lẽ (có trong mail list này) viết căn cứ trên bài thơ “BÉ” trong tập thơ “Đêm Tận Thất Thanh” của Phan Nhật Nam, Houston 1996. Tôi xin đính kèm theo đây để bản đọc tường. Kính thư, Nam.
PS. Xin cảm ơn Người Bạn Lặng Lẽ đã đọc và viết với tấm lòng. PNNam.”

Năm em tôi lên ba
Đã chịu đời xa bố
Mẹ tất tả thân mòn
Nuôi con bao vất vả
Đời thiếu nữ lớn lên
Đắng cay thêm tủi hổ
Áo vá bạc vai gầy
Tuổi thơ sôi cuồng nộ.

Mẹ mất năm mười-ba
Thảm thiết sao kể xiết
Cố nuôi em từng ngày
Khốn khó dài biền biệt.
Bạn học những tỵ hiềm
Thầy, cô nặng trì siết
Em vây chặt buồn phiền
Tuổi học trò thua thiệt
......
Tôi đi làm lính chiến
Trôi nổi chốn trận tiền
Em một mình côi cút
Đâu được ngày đoàn viên.
Mong em sau lớn lên
Tình duyên nên mãn nguyện
Cầu em đời bình yên
Quên xóa ngày uất nghẹn.

Nào đâu buổi sụp vỡ
Cảnh nước mất tan nhà
Lâm thân sơ, thất sở
Vây quanh khốn mù sa.
Long Thành, chồng tập trung
Anh ngục tù lấm nhục
Trên quê hương lưu đầy
Rừng rực lửa địa ngục.
Bốn con thơ khốn cùng
Sức người căng vượt sống
Tư trang bán sạch dần
Cây rừng khô lá rụng.
......
Tôi đi lên miền Bắc
Thân kiệt cùng thậm ngặt
Nhớ thương em dãi dầu
Nơi quê nhà bằn bặt
Rừng núi trời vào thu
Tù leo đồi đốn nứa
Bên đường đèo nghỉ đỡ
Nghe chuyện buồn thương tâm
“..Người chồng đi tập trung
Vợ ở nhà chết thảm
Bốn con nhỏ khốn cùng
Quay quắt bên thây cứng!!”
Những tưởng nghe nhầm tai
Giật mình gào hỏi lại
Ôi xiết bao kinh hãi
Đúng tên chồng em gái"!

Chuyện những Đồi Hoa Sim
Nay một lần lập lại
Không chết người ngục tù
Một mình em oan trái!
Tôi bật khóc trên đồi
Nhìn khoảng không vần vũ
Có còn không.. Đất, trời !!
Mây mang mang kéo lũ
Rừng chập chùng lá đổ
Sương dầy vây khói xanh
Thật hay không đấy hở"!
Tạo Hóa nghiệt cùng đành!
Cháu tôi ai nuôi đây"
Bé nhất chưa biết nói
Chịu sao nổi đọa đày
Giữa trùng vây khổ đói
......
Năm năm ngày giỗ em
Cấm phòng ngồi gục mặt
Nhói đau trũng ngực nặng
Em chết thật sao Khanh "

18-3-1983
Ngục tối Trại Lam Sơn, Thanh Hóa.
Không biết ngày chết,
Nhớ ngày em tôi đã có trong đời
Phan Nhật Nam

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thiên Lý Độc Hành, là tựa một tập thơ của Thầy, và cũng là bốn chữ được viết treo trên hương án của Thầy tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, nơi Thầy ở vào những năm tháng cuối đời. Thiên lý độc hành, hình ảnh biểu trưng nhất về Thầy Tuệ Sỹ, muôn dặm cô lữ dằng dặc nỗi ưu tư phận nhà vận nước…Và, khó làm sao để tường tận cái chấp chới của vạt áo tỳ khưu đẫm ánh trăng đêm, thấp thoáng ẩn hiện Người và cõi thơ tịnh tĩnh. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở/ Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan... Hỏi, tại sao, vì đâu, lòng muối kiên định... để bất khuất chưa tan?
Tháng tư nắng quái trên tàng lá / Ngày nóng rang, khô khốc tiếng người / Nước mắt ướt đầm trên mắt mẹ / Nghìn đêm ai khóc nỗi đầy vơi? / Tháng tư em dắt con ra biển / Hướng về nam theo sóng nổi trôi / Thôi cũng đành, xuôi triều nước lớn / Làm sao biết được, trôi về đâu?
Dù đứng bên bờ vực của tận diệt, con người vẫn có thể cứu chuộc chính mình bằng ngôn từ và ký ức, đó là tinh thần của giải Nobel Văn Chương năm nay. Trong ánh sáng của niềm tin, Việt Báo đăng lại bài thơ “Hãy để nước Mỹ lại là nước Mỹ” của Langston Hughes – một khúc ca vừa đau đớn vừa thiết tha, viết gần một thế kỷ trước, mà như viết cho thời đại ngày nay. Giấc mơ Hughes gọi tên lại vang lên – giấc mơ về một xứ sở nơi lời hứa của nước Mỹ là hơi thở chung của những người cùng dựng lại niềm tin vào công lý, vào tự do, vào chính con người.
Đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp, nhất là trong tập Tôi Cùng Gió Mùa, nếu cho là chủ quan, tôi vẫn nói rằng, Khí thơ của Nguyễn Xuân Thiệp là khí thu. Trăng ở thơ đó là trăng thu. Gió ở thơ đó mang cái hắt hiu thu. Không biết tại sao, chỉ thấy Khi đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp tôi lại liên tưởng đến cảm xúc của Trương Trào trong U Mộng Ảnh xưa: “Thơ và văn được như cái khí mùa thu thì là hay.”. Nguyễn Xuân Thiệp, xuất hiện lần đầu tiên trên dòng thơ của văn học miền Nam Việt Nam vào năm 1954 trên Thẩm Mỹ Tuần Báo với bài thơ Nhịp Bước Mùa Thu. Bài thơ tính đến lúc này là 71 năm -tiếng thở dài một đời người-, hôm nay tôi đọc lại, cảm xúc vẫn bị lay động bởi hình ảnh u buồn của lịch sử vào thời gian xa xăm đó.
Nguyên Yên, một trong những nhà thơ đương đại nổi tiếng ở hải ngoại. Cô chưa in một tập thơ nào, chỉ xuất hiện trên một số trang web như Việt Báo, Văn Việt, Hợp Lưu, Blog Trần thị Nguyệt Mai, Phố Văn… Ngoài những bài viết về thời sự, bình luận ký tên thật Nina Hòa Bình Lê với cái nhìn sắc bén và nhân ái, người đọc còn được biết đến Thơ của cô, với bút danh Nguyên Yên. Một tiếng thơ gây ngạc nhiên bởi ý tưởng, hình ảnh độc đáo, giản dị, mạnh mẽ, trữ tình. Tôi thực sự bị dòng thơ này lôi cuốn.
Theo đại thi hào R.Tagore "Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong". Theo tác giả cổ đại Ovid (khoảng năm 43 trước Công Nguyên) thì: “Có ít nhiều sự thoải mái trong cơn khóc”. Thi sĩ Colley khẳng định: “Lời nói để khóc và nước mắt để nói” Thi sĩ người Pháp Alfred de Musset có câu thơ: “Cái duy nhất còn lại cho tôi ở trên đời/ Chính là những lúc đã đôi lần nhỏ lệ”. Thi sĩ người Anh Robert Herrick: “Giọt lệ chính là ngôn ngữ cao quý của đôi mắt” .Nhà thơ trẻ Nepal, Santosh Kalwar tâm sự: Tôi đã mỉm cười ngày hôm qua. Tôi đang mỉm cười ngày hôm nay và khi ngày mai đến, tôi sẽ mỉm cười. Vì đơn giản, cuộc sống quá ngắn để ta khóc về mọi thứ – Và ai đó đã cho rằng: Không có gì đẹp hơn một nụ cười đã trải qua những giọt nước mắt.
Trong tập Bốn Mùa Trời và Đất, Márai Sándor cảm giác về mùa hè, …Tôi đứng trên ban công, giữa một vùng xanh, nghe tiếng rì rào thức dậy của cây cỏ. Mùa hè đây rồi, tôi nghĩ; và nó giống như một cảm xúc tràn ngập trong tôi, không khoan nhượng, và đầy những kỷ niệm giản dị… (Giáp Văn Chung dịch) Trong tản văn Hoa Nở Vì Ai, Vũ Hoàng Thư viết, …Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm… Và mùa hè trong truyện của Đặng Thơ Thơ, … Đó là lúc chín nhất của mùa hè. Những trái táo bắt đầu căng mật. Từ trong lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm...Ở Cảnh Nhàn của Bạch Vân Cư Sĩ có thú sống, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…, có lẽ thời của người, nước còn trong ao còn sạch.
Bạn đang nghe thấy gì trong khí hậu tháng Tư? / Tiếng kêu từ đáy huyệt cuối trời. / Tiếng gió xoáy những cột cờ tử thương tuẫn tiết. / Tiếng phố vỡ triệu mảnh thủy tinh cắt lồng ngực tháng tư rỉ máu mãi chưa khô. / Tiếng sóng hôi dao mùi hải tặc từ oan nghiệt một thời biển huyết. / Tiếng oan hồn dật dờ tìm về cố quận, đáy vực kia bầy cá hoang tảo mộ. / Tiếng hậu chấn từ tâm hồn con dân tháng Tư choàng lên thảng thốt. Dấu chàm xanh lưu xứ để nhận ra nhau. / Tiếng con bướm gáy trong giấc ngủ đôi bờ chiến tuyến. / Tiếng vô vọng của dòng thơ đớn đau, sỉ nhục trải dài trên đất đai tổ quốc. /Tiếng mong mỏi trên những dòng thơ đang vuốt mắt lịch sử, xin hãy chết yên, chết quên, và mở lòng ra ôm những vết thương, trồng lại bóng Quê Nhà…
“Chìm trong biển chết trôi tim người / Còn gì đâu tiếc thương xa xôi …” Chiếc tàu nhỏ rời bến Constantine, Algeria, chở Enrico Macias đến một nơi xa lạ, người lưu vong không bao giờ được phép trở về. Làm sao cánh chim di có thể quên lối cũ? Chiến tranh xua đuổi ông ra khỏi quê nhà. Tàu khởi hành không một người đưa tiễn. “Người tình ơi, ta xa nhau. Mượn đôi mắt em lên đường.” Với cây guitar làm hành trang, ông ghi lại, “J'ai quitté mon pays …”
Hãy tạm để những chuyện buồn nằm im dưới mâm cỗ ngày Tết, để ta chỉ được thấy màu xanh lá bánh chưng, màu đỏ ối ruột dưa hấu, màu vàng đỏ tung xòe trong những bao lì xì nhỏ, màu nắng chín nhấp nháy trên những trái quất… bây nhiêu đó có đủ để bạn đón hơi thở mới của đất trời? Hy vọng vậy để chúng ta được mọc lên như cỏ non trên khung rêu ngày tháng cũ. Bài thơ của Nguyễn Hồng Kiên tôi đọc được từ trang của trường Mầm Non Cự Khối, bài thơ được dạy cho các em lứa 4 tuổi, như một lời chúc tết hồn nhiên.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.