Hôm nay,  

Văn Hóa ‘Kệ’

08/08/202500:00:00(Xem: 3947)

van hoa ke
Hình minh họa: ảnh gốc từ istockphoto.
 
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình.

Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai:

– Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn.

Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, chỉ tay lên bức thư pháp dán lệch trên tường:

“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).

Chị tin vào điều đó – nhẹ nhàng, không cố thuyết phục ai, cũng không cần người khác đồng tình. Chị viết cũng như làm việc - sao cho đủ sống, đủ tiêu. Không màng giàu sang, không mưu cầu in sách. Ai biết đến thì mừng. Ai khen thì thích. Bài được đăng thì vui. Không đăng cũng chẳng sao. – “Mình không viết hơn ai. Viết chỉ để viết. Mà nếu không ai đọc, thì thôi”, chị nói.

Lối viết của chị – và cả cách sống nữa – nhẹ nhàng, thong thả, vừa đủ để không tệ, không đủ để gọi là hay. Chị tự hào cho rằng đó là lối sống tự tại. Mọi chuyện chỉ cần không thừa, không thiếu, không gấp. Chẳng việc gì phải tới nơi tới chốn cho mệt thân. Như thể sống chỉ cần nổi trên mặt nước – không chìm là may, còn trôi về đâu thì… kệ.

Đôi khi tôi tự hỏi lối sống đó sẽ đưa chị đi đâu, có làm chị an vui. Mỗi lần đọc bài chị viết, tôi thấy – như một dòng nước không rõ nguồn – chảy nhẹ qua trang giấy, rồi trôi tuột. Mỗi khi nhớ đến chị, tôi nhớ đến cái “kệ” – không phải cái kệ sách còn rất nhiều cuốn chị “không có thì giờ” đọc, mà là cái ‘kệ” chị khiêng đặt vào mọi khía cạnh ngõ ngách trong đời: “Kệ bà nó. Chết thằng tây nào đâu chứ”, chị luôn vui vẻ nói thế.

Làm lưng chừng, sống lừng khừng

Không ít người gọi đó là ‘bí quyết’ sống. Làm cho xong việc. Nói cho có chuyện. Học cho có bằng cấp. Tài nghệ “trời cho” sẽ giúp họ che lấp những khiếm khuyết. Mà dĩ nhiên, chị bạn tôi ít khi thấy mình thiếu sót. Bài viết có người đọc, rồi lại có người ‘like’, đủ để ‘tự sướng’, “đòi hỏi gì nữa,” chị dài giọng.

Lối làm vừa đủ, lối sống lưng chừng dần trở thành một thứ triết lý ngầm: ai làm hơn thì bị cho là bon chen, ai làm kỹ thì bị bảo là cầu toàn thái quá, ai tươm tất, gọn gàng là sống hình thức “bề ngoài”, ai cầu tiến là sân si, ai đặt chuẩn mực tự động bị xếp vào hạng người “quá cao” khó hòa hợp.

Trong chiếc áo khoác mang tên “tự tại”, cái không-tới-nơi bỗng trở thành một lựa chọn sống ‘sâu sắc’.

Nhiều người biện minh: xã hội này vốn không công bằng, làm nhiều chưa chắc được gì, cố gắng dễ thành uổng phí. Làm đại khái lại là sống khôn ngoan. Có thể họ đã từng mơ, từng dốc lòng, từng lao vào đời với tin yêu rồi bị dập tắt, bị coi thường, bị làm ngơ. Cũng có thể họ chỉ không đủ sức vượt qua, nên họ thu mình lại – không hẳn vì lười, mà vì sợ bị tổn thương thêm một lần nữa. Cái kệ trở thành cái vỏ – che đậy một niềm tin đã từng rạn vỡ.

Cũng có người biện minh kiểu hay-dở, xấu-đẹp, cao-thấp tùy cách nhìn của mỗi người. Miễn là sống đúng với “chính mình”. Miễn là hạnh phúc, là bình yên trong lòng. Làm theo khả năng, sống theo bản năng – là đủ. Tự mãn với cái gọi là “chân thật với bản thân” nên không thấy nhu cầu cần vươn lên. “Trèo cao té đau”, họ thường nói.  Nhưng cái “mình là chính mình” mà họ vịn vào – đôi khi chỉ là cái cớ để xoa dịu lòng tự ái, một thứ tự tôn khoác áo tự ti. Như người cộng sản khi vào Sài Gòn sau 1975 – bất cứ thứ gì họ không có hay không “với tới”, họ nhanh chóng liệt chúng vào sản phẩm đồi trụy của Mỹ ngụy, cấm không đụng tới.

Tự nhủ những điều trên mức mặc định là không cần thiết hay không “màng tới”, người ta yên tâm mặc kệ, để lối sống dễ dãi trở thành thói quen. Điều đáng lo không chỉ là mất đi đam mê, hoài bão, mà là mất luôn cảm giác cần đi tới nơi tới chốn, cần làm công việc đủ trách nhiệm. Không dừng lại sửa một câu. Không cần rà soát lỗi. Không cảm nhận cảm xúc. Để hấp tấp trở thành nhịp sống, lâu dần, cái "làm cho xong" trở thành bình thường. Và người ta ngộ nhận sự lè phè, thờ ơ, làm biếng là biết sống, biết an vui.

Chị bạn tôi có lần than thở thế giới bây giờ nhanh quá, làm gì cũng thiếu “chất lặng”. Chị rủ tôi đi khóa thiền ba ngày. Tôi từ chối vì đúng ngày làm báo. Chị phẩy tay: – “Có gì mà ‘hệ trọng’ dữ. Để chị giúp em hôm nay, ngoáy cái xong liền”. Chị muốn tôi đi cùng, để thỉnh thoảng nếu “chán” hai chị em còn có thể lẻn ra xe ngồi... tán dóc. Một điều chị không thể hiểu, vấn đề không nằm ở thế giới, mà là ở chính bản thân, kể cả khi chị muốn lặn sâu hơn, thói quen sống trên bề mặt vẫn khiến chị lềnh bềnh.

Vượt Lên Chính Mình

“Chúng ta là kết quả của những gì mình lặp đi lặp lại. Sự xuất sắc, vì thế, không phải là hành động nhất thời, mà là sự tập luyện.”
– Aristotle.

Có người vẽ mãi vẽ hoài không xong một bức tranh. Mỗi ngày lại sửa, mỗi tuần lại thay màu sắc, đổi ánh sáng. Ba năm trôi qua, người ta tưởng ông đã bỏ ngang. Nhưng rồi bức tranh hoàn thành – là tác phẩm để đời The Last Supper của Leonardo da Vinci.

Có người viết mãi một bản nhạc, mỗi lần mỗi bôi xóa, mỗi sửa, bẻ gãy giai điệu cũ. Giai điệu trong đầu luôn chạy đè lên giai điệu đã viết xuống. Ông viết, xóa, viết, xóa, viết lại. Không phải từ cảm hứng, mà từ sự vật lộn với trí óc. Bản giao hưởng số 5 của Beethoven ra đời – một trong những tác phẩm vĩ đại nhất lịch sử – là kết quả của sự không ngừng thử, không ngừng sai, không ngừng bắt đầu lại.
Trong lần làm việc thâu đĩa nhạc “Gội Đầu-Bay” của Trần Dạ Từ, tôi có dịp làm việc với một vài ca sĩ, từ những giọng hát mới đến những ca sĩ thượng thặng trong dòng âm nhạc Việt. Khi tất cả mọi người khác đã hài lòng với những bài hát đã thâu của mình, Khánh Ly vẫn tiếp tục ra vào phòng thâu, hát lại, làm lại, hát lại, làm lại nữa. Cuối cùng khi bài hát đã được thâu ‘hoàn chỉnh’, Cô lại nói: ‘Các anh chị xin tiếp tục nghe lại, còn gì cần sửa thì sẽ sửa, phải sửa.’ Tôi vẫn nghe nhiều người nói Khánh Ly có giọng hát trời phú, riêng tôi hiểu để đạt đến vị trí của mình, Cô không dựa vào tài năng trời phú, mà vào sự nghiêm chỉnh, siêng năng, lương tâm nghề nghiệp, tôn trọng thính giả, và lòng tự trọng - luôn đặt cho chính mình tiêu chuẩn cao nhất, hoàn mỹ nhất.

Trong tòa soạn Việt Báo có một người luôn được mọi người gọi đùa là "Ông Từ giữ chùa" – không phải vì ngày nào Ông cũng đến sớm, về trễ, hiện diện bất kể giờ nào; cũng không vì Ông kiên trì, tỉ mỉ, không bỏ qua một chi tiết nào dù nhỏ nhất, mà vì Ông không bao giờ ngưng sửa "sản phẩm cuối cùng". Báo lên khuôn rồi, Ông vẫn còn tiếp tục chỉnh sửa. Có khi đứng chờ báo in ra ở nhà in, đọc lại thấy còn có thể sửa một câu, ông nằng nặc đòi bỏ tiền túi ra in lại. Hỏi vì sao phải "khổ" thế – đâu ai thấy khác biệt? Ông trả lời: "Tôi thấy." Ai làm việc với ông đều nhớ mãi bài học về sự nghiêm cẩn trong từng việc nhỏ, nhất là đối với bản thân, vượt lên chính mình, luôn làm hết sức có thể. Mọi người tuy càm ràm, nhưng ai nấy đều hiểu nhờ những nguyên tắc không kệ, không thỏa hiệp, tờ Việt Báo luôn ở cấp bậc chuyên nghiệp, và cái nghề này vẫn còn giữ được một chuẩn mực đúng phẩm giá.

Tự mãn khoác áo tự tại

Khi dễ dãi với chính mình, người ta dần dễ dãi với mọi thứ xung quanh.

Một người nói năng lủng củng vẫn được khen là “dễ thương”. Một bài nói chuyện không chuẩn bị trước, thiếu đầu đuôi, vẫn được cho là “có tâm”. Một tổng thống phát ngôn sai ngữ pháp, lời lẽ ngây ngô thô thiển, vừa thiếu chữ vừa tự cao tự đại – vẫn được tung hô là “nói thật”. Từ việc cho qua những lỗi căn bản, người ta dần bỏ qua luôn cả điều quan trọng hơn: sự trung thực, sự tử tế, sự sâu sắc. Và khi dễ dãi đã thành thói quen, không còn ai nhận ra đó là dễ dãi nữa.

“Tuân tử khuyến học” – không có công mài sắc, sao có ngày nên kim? Không đủ trí tuệ căn bản để tự soi xét, người ta dễ lầm giữa sơ sài và giản dị, giữa tùy tiện và tự nhiên. Và khi cái dở không còn bị nhận ra là dở, nó trở thành thước đo mới – rồi lan rộng, rồi bám chặt như một nếp sống.

Dân gian gọi đó là “ếch ngồi đáy giếng” – thấy trời chỉ nhỏ bằng miệng giếng, và tưởng rằng thế giới bao trọn trong đó. Miệng giếng càng hẹp, sự tự mãn càng lớn.

Trong xã hội hiện nay, lắm người viện dẫn triết lý “biết đủ” để sống an nhiên. Nhưng nếu không biết rõ “đủ” là gì, không phân biệt được đâu là giới hạn, đâu là khả năng, đâu là cái cớ để dừng lại – thì cái gọi là “biết đủ” ấy thật ra chỉ là một kiểu tự mãn ngọt ngào. Khi đó, sự tự tại không còn là thanh thản – mà là tự xoa dịu; không phải là bình an – mà là né tránh.

Và “sống vừa đủ” trở thành cái bẫy trói buột khả năng con người.

Bề Mặt và Chiều Sâu

Sống trong thời đại thông tin, con người ngày càng sống trên bề mặt.

Đọc tin thì chỉ đọc tựa, quá lắm là đọc bản AI tóm tắt. Du lịch thì nhét vào thật nhiều danh lam thắng cảnh chỉ đủ giờ để chụp hình. Học thì lướt video, ghi chú vội vài dòng. Làm việc chỉ vừa đủ để khỏi bị xếp nhắc. Mọi thứ đều chỉ “đủ dùng”, “đủ biết”, “đủ quen”, “đủ vui”. Cái “đủ” ấy – là cái đủ qua loa – đủ để tạo thành những phiên bản đại khái của cuộc đời.

Và người ta sống giữa trăm nghìn thứ biết, chuyện gì cũng biết, nhưng hiếm khi biết rõ điều gì. Thay vì nhận ra rằng mình chỉ đang nỗi trên bề mặt biển thông tin – người ta viện cớ không đủ thời gian, hoặc không còn thói quen – để dừng lại và tìm hiểu. Phản ứng nhanh dần thay thế cho suy nghĩ kỹ. Một bài viết hay chỉ cần đánh giá qua số lượt ‘like’, một câu chuyện thật bị bỏ qua vì không đủ tít giật gân. Những điều phức tạp bị lướt qua, còn cái dễ hiểu – dù vô nghĩa – lại lan truyền nhanh chóng. Cái cạn thắng cái sâu. Cái rỗng át cái đầy.

Cái “kệ” giờ đây không chỉ nằm trong căn gác nhỏ của một người viết, mà len vào khắp nơi: từ phòng họp hành chính đến giảng đường đại học, từ phòng treo tranh đến chương trình nhạc hội, từ bản tin truyền hình cho đến lời ăn tiếng nói thường ngày. Và mỗi khi một người quyết định “kệ”, thế giới xung quanh lại mất đi một phần độ sâu.

Điều nguy hiểm là khi sống quá lâu trên bề mặt, con người không chỉ đánh mất khả năng chịu đựng chiều sâu, mà còn quên mất rằng mình từng có nó. Không phải vì không còn cảm xúc, mà vì thiếu kiên nhẫn để lắng lại. Chiều sâu đòi hỏi thời gian, nỗ lực, và cả sự can đảm để đối diện với chính mình. Trong khi bề mặt thì dễ hơn – nhanh, tiện, và không đau.

Kệ hay không kệ

Không ai bắt buộc chúng ta phải theo đuổi sự xuất sắc. Nhưng mỗi lần buông tay quá sớm, mỗi lần gật đầu với cái-không-tới mà không còn cảm thấy áy náy lương tâm, mỗi khi hài lòng với cái “tạm đủ” để phô trương chút tài mọn, là mỗi lần chúng ta dọn đường cho cái "kệ" trở thành mặc định.

Có lẽ chị bạn tôi – người viết trên căn gác – cũng chẳng muốn trở thành nhà văn nhà báo gì. Không phải vì chị không có tài, mà vì chị đã quen với sự “tự tại” – như một vỏ bọc cho những giới hạn chị không muốn vượt qua. Cho đến khi nào chị viết không vì thói quen cầm bút, mà vì một điều buộc mình phải đào sâu, phải gắng sức, phải thành thật đến tận cùng – thì lúc đó, ý tưởng mới chắp cánh đưa chị vượt khỏi cái ngưỡng giới hạn tự mãn với ‘chính mình’.

Stephen King viết: “Complacency—that’s what kills you.” Không phải thất bại, không phải bị từ chối, mà chính sự tự bằng lòng với cái-chưa-tới của bản thân – mới âm thầm giết chết tri thức con người.

Nina HB Lê

Ý kiến bạn đọc
09/08/202507:47:37
Khách
Bài viết hay. Sâu sắc. Đọc thích ghê!
Nina nên viết nhiều thêm!
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trên thế giới chỉ có dân tộc Việt Nam nói riêng và nói chung là dân Á Đông (Tầu, Nhật, v.v…) là yêu mến ngày Tết và trọng mùa xuân hơn cả. Mùa xuân là mùa đem lại sức sống mới cho vạn vật: cây cối đâm chồi nẩy nụ, rồi hoa đua nở, cầm thú vui tươi và người người như trẻ ra. Người ta sửa soạn đón xuân ăn Tết với niềm vui rộn rã tràn ngập tâm hồn. Và người Việt Nam ăn Tết lâu hơn mọi dân tộc khác.
“Chỉ là nỗi đam mê” (Passion Simple, 1991) là một trong số gần 30 tác phẩm của nhà văn nữ người Pháp Annie Ernaux, người vừa được Hàn Lâm Viện Thụy Điển trao tặng giải thưởng Nobel về Văn Chương 2022...
... Nếu thế thì mỗi bài thơ là một sự cách tân, mỗi thi sĩ là một người làm mới sự vật. Có những điều chỉ ngôn ngữ thi ca mới nói được, chỉ thi ca mới có cái “thần” giúp chúng ta thấu thị tận đáy sâu của bản ngã. Người làm thơ là người nắm trong tay quyền năng “soi sáng” sự vật, quyền năng cho sự vật một đời sống mới, quyền năng “đi vào linh hồn của sự vật[1],” và không ai có thể tước đoạt quyền năng đó từ tay hắn...
Trong tuần qua, nhà thơ Trịnh Y Thư vừa phát hành một sách mới nhan đề “Căn Phòng Riêng,” dịch từ nguyên bản tiếng Anh, Virginia Woolf, A Room of One’s Own, nxb Harcourt, 1991. Theo lời dịch giả Trịnh Y Thư, ấn bản 2023 của bản dịch để phổ biến ở hải ngoại là bản được sửa chữa và tăng bổ từ hai ấn bản đã in trong các năm 2009 và 2016 tại Việt Nam. Tập tiểu luận văn học này của Virginia Woolf (1882-1941) như dường trải qua gần 100 tuổi, vì sách ấn hành lần đầu là năm 1929, nhưng các vấn đề nêu lên đều rất mới, như vị trí người cầm bút nữ chỉ là bóng mờ trong ngôi làng của các nhà văn, hay yêu cầu của Woolf rằng người sáng tác phải lìa hẳn “cái tôi” khi cầm bút, hay người sáng tác văn học cần có “khối óc lưỡng tính [nam/nữ]” (nghĩa là lìa cá tính, hay lìa ngã thể?) -- nghĩa là tất cả những gì rất mực táo bạo đối với người sáng tác văn học Việt Nam.
Tôi muốn kể lại với quý vị hai ví dụ đặc biệt về loài vật hành động với nhiều nhân tính hơn hầu hết loài người chúng ta. Quan điểm của tôi không phải cho rằng loài vật là nhân đạo hơn loài người, nhưng cho thấy có bằng cớ rõ ràng rằng loài vật có thể hành động theo những phương cách không phù hợp một số định kiến rập khuôn của Tây phương dành sẵn về các khả năng của chúng...
Suốt thời gian gần trăm năm qua, từ ngày xuất bản năm 1929, cuốn Căn phòng riêng của Virginia Woolf vẫn được xem là tập tiểu luận văn học có tầm ảnh hưởng rất lớn bởi tính cách đặt vấn đề của nó. Nó là cuốn sách được nhật báo Le Monde của Pháp quốc xếp hạng thứ 69 trong số 100 cuốn sách hay, giá trị, đáng đọc nhất thế kỷ XX. Kỳ thực, nó là cuốn sách đặt nền móng cho Nữ quyền luận trong hai lĩnh vực tư tưởng và phê bình văn học. Cuốn sách được hình thành dựa trên loạt bài thuyết trình Woolf đọc trước cử tọa toàn phái nữ tại hai trường cao đẳng dành riêng cho phụ nữ, Newham và Girton, thuộc trường đại học danh tiếng Cambridge của Anh quốc, vào năm 1928, xoay quanh chủ đề “Phụ nữ và sáng tác văn học.”
Quyển thơ có 18 bài trong 50 bài được thầy Tuệ Sỹ viết bằng Hán tự trong thời gian bị bắt giam lần thứ nhất hơn 2 năm (1978-1981)...
Nhân đọc tập thơ Tiểu Khúc của Tôn Nữ Thu Dung, Tương Tri xuất bản.
Khi nhận được tập tiểu luận Suy Tư và Ước Mơ của tác giả Pham Xuân Tích, tôi liền điện thư cho tác giả với chân tình: “Tích ơi! Cuối năm bạn gửi đến tôi một quả bom tấn”. Tác giả, người bạn chí thân của tôi, trả lời “Anh Thể! Anh chịu khó đọc thật kỹ, đó là công trình suy tư của tôi trong nhiều năm tháng’’...
Thérèse Desqueyroux, tên tác phẩm của François Mauriac, và cũng là tên nhân vật nữ chính, ra đời từ năm 1927. Đến nay, nó đã tròm trèm trăm tuổi, trải dài 5 thế hệ...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.