Hôm nay,  

“Mẹ à!”

16/06/202018:22:00(Xem: 6823)
TRAN-NGUYEN 01
Cáo Phó Bà Cố Elizabeth Huỳnh Phúc Ánh Clara OFS.

TRAN-NGUYEN 02.jpeg
Cha Tim trao phần thưởng cho học sinh Việt ngữ Kitô Vua, Giáo xứ St. Columban.

TRAN-NGUYEN 03.jpeg
Gia đình sum họp nhân dịp 14 năm thụ phong linh mục của Cha Tim.

* Một thành viên của Văn Phòng Giới Trẻ và Sinh Viên Công Giáo *


Mỗi lần tôi tới thăm, Dì hay kể chuyện Dì vui đùa bên con cái. Chuyện các con hay chọc Dì khi Dì nói giỡn. Các con hay kêu, “Mẹ à!” Cái chữ à, Dì kéo thật dài.


Những ai gặp Dì lần đầu sẽ không biết những ngổn ngang niềm riêng Dì chôn chặt trong lòng. Dì hay nói, “Sao bây giờ Dì quên nhiều lắm.” Ai lớn tuổi mà lại không hay quên. Tôi chưa lớn tuổi mà cũng hay quên nè. Dì không hẳn bị lẩn. Phần nhiều là bị mất thăng bằng về tình cảm. Dì hay nhắc chuyện cũ với người thân, nhất là Bà Ngoại và con trưởng của Dì. Rồi có lúc, Dì nói chuyện như thể người Mẹ đã đi xa mười mấy năm của Dì vẫn còn sống.


Qua những tâm sự của Dì, tôi chứng kiến những khoảnh khắc thương tâm của quá khứ như những trận mưa trút trời rơi xuống trên Dì. Dì xoè đôi tay đã khẳng khiu vì tân toan cuộc đời và sự hao mòn của năm tháng ra để hứng. Nước mưa cứ tuôn qua kẽ tay, đi hết. Còn nỗi đau cứ bám lại trên tim. Nên khi kể lại lúc xa Bà Ngoại để đi định cư ở Mỹ, Dì nghẹn lời. “Bà Ngoại đưa Dì ra phi trường. Dì thấy Bà Ngoại chảy nước mắt.” Và khi xa con gái duy nhất, Dì cũng chảy nước mắt. Ký ức lặng lẽ cuộn lấy Dì. Như nắng hè cuộn lấy con đường quê. Dài hun hút.


Dì thích con gái. Lại sanh trai đầu lòng. Vậy mà Dì vẫn mê và yêu lắm. Yêu từ cái tên Dì đặt cho con, từ mái tóc của con, đến tính tình. Dì thấy hoa quả đầu mùa của mình tuyệt hảo, một món quà của Thượng Đế, một niềm vui vô tận cho Dì. “Nó hiền lắm! Ai nói gì nó cũng cười!” Dì hay nói như vậy. Con trưởng của Dì chọn đưa cõi Trời vào cõi người. Kê vai sắt cõng cuộc đời. Tiếp tục đời thứ bốn trong gia đình có những tâm hồn chọn con đường phục vụ. Dì thương con lắm. “Tội lắm! Tuần nào ngày nghỉ nó cũng về thăm.”


Tôi đã được Dì dắt đi trên tâm thức thăm thẳm của người Mẹ già. Đi qua những bóng râm của tuổi thơ con Dì. Đến gần những hoa nắng chiếu trên vách tường tuổi trẻ, lúc Dì lấy chồng khi mới ngoài hai mươi. Và tôi đi cạnh tuổi già mong manh như bóng câu qua cửa của Dì, cái tuổi già chỉ mong mình có chút ý nghĩa đối với con cái, chỉ mong được gần con cháu, chỉ biết nói về con cái như một niềm vui bất diệt. 


Thấy Dượng vất vả, tôi muốn bày chuyện cho Dì giải khuây. Tôi gom góp hình gia đình Dì rồi làm album để Dì coi mỗi khi nhớ con nhớ cháu. Tôi hỏi, “Hồi trẻ, Dì có thích thêu thùa may vá vẽ vời gì không?” Dì nói, và cười tươi, như mọi khi, “Đâu có! Mắc làm công chuyện nhà hết rồi! Nhà có năm đực rựa mà!” Rồi Dì đọc tên anh em trong nhà như một dòng thơ. Tôi thử đem hình cho Dì tô màu. Hình thánh bổn mạng Dì. Hình thánh gia. Hình Giáng Sinh có máng cỏ. Hình nhiều đề tài và nhiều kiểu, có cảnh gia đình, có hình đạo. Chì màu, chì sáp, bút lông. Mong là khi ngồi tô màu, Dì có thể thư giãn đầu óc, cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Nhưng Dì nói mắt Dì yếu lắm. Chắc Dì không quen. Dì không quen ngồi yên. Hở chút là Dì chạy đi lau dọn nhà cửa. Như đã thành một bản năng sống. Những người phụ nữ cán đán việc nhà, quên đi niềm vui riêng của bản thân. Hôm ghé nhà tôi, ra tới hàng ba, Dì hỏi, “Chổi đâu? Dì quét chỗ này cho.” Ăn cơm xong, Dì đòi rửa chén. Tôi phải cản lắm mới được. Thiệt tình. Dì muốn tôi tổn thọ hay sao mà đòi rửa chén cho tôi? Dì lấy giấy lau cái bếp, rồi tiện tay lau lên kệ, vòng qua phòng ăn, chùi mấy vết bụi trên cửa kiếng. Sao mà xót ruột.


Tôi vẫn thương lắm những người phụ nữ cùng thế hệ với Mẹ tôi, như Dì. Một thế hệ nhiều mất mát. Trong hai mươi mấy năm nghiên cứu về người Việt hải ngoại, tôi đã gặp nhiều những cảnh lòng như Dì ở mọi miền thế giới. Những người phụ nữ dành cho con cháu nụ cười và giữ riêng nước mắt cho mình. Những người phụ nữ cuối cùng của một Việt Nam trước khi đất nước này bị thống nhất và bị giải phóng. Những người phụ nữ tinh ròng, sống hết mình vì gia đình, chồng con. Những người phụ nữ gánh gồng những binh đao trận mạc, vẫn còn đón hoả châu rơi trên tâm thức mấy chục năm sau, vẫn đón bom rơi đạn lạc dù chồng con ra trận đã mấy chục năm trước. Ở hải ngoại, họ mất luôn cái môi trường xã hội cộng thể của xóm làng, của họ hàng. Trong tuổi già, đời sống trở nên đơn lẻ. Nên những mất mát tăng theo luỹ thừa kép, lũy thừa ba. Trái tim Mẹ già - mênh mông nỗi nhớ, bát ngát niềm đau.


Liệu ai sẽ giữ trái tim Mẹ trong tuổi già bóng xế, xa con xa cháu, xa quê xa nhà? Những người phụ nữ lầm lũi trên lối mòn ký ức lung linh tắt. Trong những lần đi thăm các Viện Dưỡng Lão, tôi vẫn cảm cái quạnh quẽ hắt hiu của một không gian bị xã hội bỏ quên. Bãi đậu xe ở những nơi này thường rất vắng.


Nếu trái đất được giữ bởi trọng lực, thì cuộc đời được giữ bởi lực hút từ trái tim những người Mẹ. Nhưng lực nào sẽ giữ cho những trái tim mẹ già thổn thức nhớ con nhớ nhà khỏi bật ra khỏi nhịp tim mong manh của hoàng hôn đời người? Sẽ có mãi những nhịp ru cuộc đời trong cõi người, mà hai chữ đẹp nhất chính là “Mẹ à!” của con cái trách yêu Mẹ già thích giỡn.


Đời sống ở Mỹ cô quạnh đến chát đắng cho người cao niên. Lần cuối tôi thay Mẹ đến thăm Tết Dì Dượng ở căn hộ gần biển, Dì khóc, đòi về nhà, “Tui muốn về nhà Mẹ tui…” Những chấn thương tình cảm, như những cơn động đất tần số cao, cứ lập lại, lập lại, lập lại. Lập lại, cho đến khi mọi thứ vỡ tan, nhòa đi, trong nước mắt tủi hờn. Xa cha xa mẹ, rồi con cái lấy vợ lấy chồng ra riêng. Nỗi cô đơn ấy, người sống trong đợi chờ, bao giờ mới cạn? Lần tôi mời ghé nhà chơi, Dì ngồi ngoài hàng ba, nói với Dượng:


  • Ở nhà Mẹ, em hay ở với con Lý, anh nhớ không?


Dì hay nhớ chuyện xưa. Nhớ mái nhà thơ ấu. Mái ấm sung túc trước khi Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam. Nhớ Bà Ngoại thương Dì, cưng Dì. “Dì muốn gì, Ngoại cũng cho,” Dì hay nhắc vậy. Ở quê cũ, họ hàng, người quen thật nhiều. Xóm giềng thân thiết. Đời sống gắn bó, người với người. Khi đi tìm tự do, nhiều người Việt phải chấp nhận đánh đổi tất cả những giềng mối thân thiết ấy. Và sự chấn thương tình cảm đó, đối với nhiều người, hầu như không vãn hồi được. Ức chế tâm lý đưa đến niềm đau khôn nguôi. Cách duy nhất là tìm về dĩ vãng, níu lấy thương yêu thưở nào.


Cuộc đời Dì cùng chung tâm sự với những người phụ nữ Việt Nam, một cảnh hai quê, sinh trưởng ở quê mình, mà lưu vong ở quê người. Nên lạc lõng. Bơ vơ. Xa lạ. Càng sống ở xứ người càng lâu, thì càng lạc lõng, buồn tênh. Nên Dì hay đi lạc. Vì tìm hoài không ra cái ngôi nhà tuổi thơ vẫn réo gọi trong tiềm thức. Dượng đi tìm. Con cái đi tìm. Sau nhiều lần đi lạc ở trần đời, Dì đã tìm được đường về nhà thật trên trời.


Dì đã dâng cho Chúa hoa quả đầu mùa. Nay Dì về Nhà Cha, hưởng ân lộc muôn vàn. Xin Chúa thương an ủi Dượng và tang gia trong niềm đau trần thế, và ban cho gia đình hy vọng trong niềm tin muôn đời. Để con cái, cháu chắt, khi nhớ đến Dì, sẽ còn nhớ nụ cười và tính hay đùa nghịch của Dì mà khẽ gọi, “Mẹ à!”

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, thành phố Westminster, miền Nam California vào lúc 9 giờ sáng Thư Năm ngày 30 tháng Tư năm 2020 lễ đặt vòng hoa và thắp nhang tưởng niệm 45 năm quốc hận 30 tháng Tư đã được long trọng tổ chức, vì tình hình bệnh dịch Covid-19 nên năm nay không được tổ chức đông đúc như những năm trước đây, mặc dù vậy một số các tổ chức cộng đồng, hội đoàn, đoàn thể cũng đã trang nghiêm tổ chức lễ đặt vòng hoa, thắp nhang tưởng niệm 250,000 Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa, 58,000 quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh trong trận chiến bảo vệ Miền Nam Việt Nam, cùng hàng triệu đồng bào đã bỏ mình trên đường vượt biên, vượt biển tìm tự do, hàng ngàn quân dân các chính VNCH đã bỏ mình trong các trại lao tù cộng sản.
Nhưng vấn đề không đơn giản như họ nghĩ để buộc người miền Nam phải làm theo vì không còn lựa chọn nào khác. Trong 45 năm qua, ai cũng biết nhà nước CSVN đã đối xử kỳ thị và bất xứng với nhân dân miền Nam trên nhiều lĩnh vực. Từ công ăn việc làm đến bảo vệ sức khỏe, di trú và giáo dục, lý lịch cá nhân của người miền Nam đã bị “phanh thây xẻ thịt” đến 3 đời (Ông bà, cha mẹ, anh em) để moi xét, hạch hỏi và làm tiền.
Kể từ sau đệ Nhị Thế chiến, Việt Nam đã hai lần trễ chuyến tàu lịch sử để toàn dân xây dựng đất nước, chỉ vì những khúc quanh oan nghiệt do Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành. Cơ hội thứ ba đang tới, những người cộng sản đang cầm quyền tại Việt Nam có biết chủ động nắm lấy nhằm thoát Tàu và thoát Cộng để chuộc lại phần nào những nỗi oan khiên đã gây ra cho cả dân tộc suốt từ sau Thế chiến Hai đến nay hay không?
Nhìn chung, CSBV và MTGPMN có ba thắng lợi: một là toàn bộ binh sĩ Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam; hai là công nhận sự hiện diện của 140.000 quân của QĐNDVN ở miền Nam và chính phủ ”ma” MTGPMN; ba là quy chế khu phi quân sự sẽ không đuợc luật quốc tế công nhận và không ai sẽ can thiệp khi vi phạm. VNCH phải chịu thất bại nặng nề, vì không có tiếng nói chính thức trong hội nghị. Hai mục tiêu duy trì binh sĩ Hoa Kỳ để tiếp tục hỗ trợ QLVNCH chiến đấu và trục xuất binh sĩ CSBV ra khỏi miền Nam đều không có kết quả. Hoa Kỳ thắng lợi vì mang binh sĩ hồi hương, một lối thoát trong danh dự của Nixon mà Kennedy và Johnson không đạt được. Hà Nội phải công nhận VNCH là một thực thể chính trị để đối thoại, phải từ bỏ yêu sách một chính phủ liên hiệp không có chính quyền Thiệu tham gia.
Trong thực tế, một người tận mắt chứng kiến cảnh chiến xa CS chạy vào dinh Độc Lập ngày 30-4-1975, kể lại đầu đuôi câu chuyện cho người viết bài nầy rất rõ ràng và hoàn toàn khác với sách vở CS đã viết. Đó là giáo sư tiến sĩ Đỗ Văn Thành, hiện nay đang giảng dạy tại đại học Oslo, Na Uy (Norway).
Từ năm 75 đến thập niên 80 có lối trên một tiệu người Việt Nam liều chết vượt biển để tìm tự do và cuối cùng một số người may mắn đã đến được bến bờ tự do. Thống kê (2007 ?) cho biết có khoảng trên 35.000 người Việt Nam sinh sống tại thành phố Montréal. Họ được gọi là Les Vietnamiens de Montréal hay Les Viéto-Montréalais. Theo thời gian, cộng đồng người Việt Montréal dần dần lớn mạnh thêm, thích nghi và hội nhập một cách êm ái vào xã hội Québec.
Trong sự hỗn loạn của chiến tranh kéo dài nhiều năm, hầu như không có một gia đình người Việt nào trong thế kỷ 20 mà không bị bức hại và phải đào thoát. Chiến tranh Việt Nam đã tạo ra hàng triệu nạn nhân, với bao người tàn phế, cô nhi, chấn thương tâm lý và để lại một đất nước hoang tàn.
Từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến ngày 30 tháng 4 năm 2020 thời gian 45 năm. Đây là một khoảng thời gia rất dài trong đời người và thời gian đủ để một quốc gia, dưới sự lãnh đạo của một tập thể hoặc cá nhân sáng suốt, có thể đưa cả một dân tộc đi lên và xoay chuyển vận mệnh như Minh Trị Thiên Hoàng của Nhật Bản, Tổng Thống Mustafa Kamal Ataturk của Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Tổng Thống Phác Chính Hy của Nam Hàn.
Cơ Quan FDA của Hoa Kỳ chưa chấp thuận bất cứ loại thuốc nào cho việc điều trị vi khuẩn corona. Nhưng họ dự định sẽ tuyên bố sự ủy quyền sử dụng khẩn cấp đối với thuốc remdesivir, theo báo The New York Times cho biết. Việc ủy quyền có thể đến vào Thứ Tư, theo báo Times tường trình, trích thuật lời một viên chức cao cấp của chính phủ cho biết. Trong một thông báo gửi cho CNN, FDA nói rằng họ đang nói chuyện với Gilead Sciences, nhà bào chế thuốc remdesivir, về việc chế tạo thuốc cho các bệnh nhân.
Tổng Thống Trump nói rằng các hướng dẫn giữ khoảng cách xã hội hiện có mà sẽ hết hạn vào cuối tháng 4 tức Thứ Năm sẽ không được gia hạn thêm, khi ngày càng có nhiều thống đốc bắt đầu thực hiện các bước gỡ bỏ các hạn chế và tái mở cửa kinh tế của họ. Chính phủ Trump cho biết các đề nghị giữ khoảng cách xã hội hiện đang có sẽ không được hợp tác bởi các thống đốc áp dụng vào các kế hoạch tương lai mới của họ. “Chúng sẽ bị bãi bỏ, bởi vì các thống đốc hiện đang làm điều đó,” theo Trump cho biết.
Trung Cộng luôn luôn tìm mọi cách để khẳng định tuyên bố chủ quyền của họ trên Biển Đông mà cụ thể là họ đã tự đưa ra hình đường lưỡi bò liếm gần hết Biển Đông, thì nay một công ty TQ An Dương tại Hải Phòng đã xây dựng công trình có hình giống như hình đường lưỡi bò của TQ đã bị dẹp bỏ, theo bản tin của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) cho biết hôm 29 tháng 4 năm 2020.
Một khu trục hạm phi đạn dẫn đường của Hải Quân Hoa Kỳ đi qua vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa ở Biển Đông thách thức yêu sách của Trung Quốc đối với khu vực, theo tin của AFP tường thuật Hải Quân cho biết hôm Thứ Tư, 29 tháng 4.
Đến nay, đối với đồng bào ở trong nước và cộng đồng người Việt ở hải ngoại kể từ 30-4-1975, sau 45 năm, những ngày ấy, những năm tháng ấy, không bom đạn trên đầu, nhưng sao trong lòng của mỗi chúng ta cứ lo âu, xao xuyến, sục sôi những chuyển đổi. Không sục sôi chuyển đổi sao được, những tiến bộ Khoa học Công nghệ 4.0, nhất là sự tiến bộ của điện toán, của hệ thống truyền thông, thông tin vượt tất cả mọi kiểm soát, vượt mọi tường lửa, thế giới phô bày trước mắt loài người, trước mặt 90 triệu đồng bào Việt Nam, những cái hay cũng như những cái dỡ của nó một cách phũ phàng.
Ngày 29 tháng 4, năm 2020, nhân tưởng niệm 45 năm tháng Tư Đen, các Dân Biểu Hoa Kỳ Alan Lowenthal, Lou Correa và Harley Rouda đã gửi thư cho Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng và Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm tại VN, tiếp tục việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, cho phép các tổ chức tôn giáo độc lập được công khai hoạt động, và bảo vệ các quyền và tự do căn bản của công dân Việt Nam.
Trong tuần lễ này, Dân Biểu Liên Bang Lou Correa (CA-46) đã giới thiệu nghị quyết tưởng niệm về sự hy sinh và can đảm của người tị nạn Việt Nam bỏ chạy khỏi miền nam Việt Nam từ sau ngày Sài Gòn sụp đổ khoảng 45 năm về trước.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.