Hôm nay,  

Biến cố 30.4.75 theo tài liệu của CIA, BNG và phơi bày tham vọng của Tướng Đôn...

21/02/202118:01:00(Xem: 8385)
blank  
Đào Văn

Biến cố 30.4.75 theo tài liệu của CIA, BNG và phơi bày tham vọng của Tướng  Đôn...

* TT Thiệu muốn Mỹ giúp lần chót bảo vệ từ Nha Trang đến Tây Ninh (4.1975)
CIA: Tướng Đôn vận động buộc TT Thiệu  sớm từ chức, và muốn làm thủ tướng để đàm phán (với VC), nhưng Mỹ nghi ngờ...(4.1975)
BNG: Đôn  rất háo hức  muốn  tiến  trình đàm phán sớm...
* ĐS Martin: ...tướng lĩnh sẽ buộc ông (Thiệu)  phải ra đi.
* BNG: Mỹ đề nghị với Liên Xô ngừng bắn tạm thời để di tản (4.1975)
* TT Nixon: HĐ Ba-lê không  cần VNCH,và đe dọa chặt đầu, nếu...(1.1973)
* TT Nixon chê cách hành xử của TT Kennedy về vụ 1963 (1970)
 
Bài viết trước người viết đã gửi đến  bạn đọc quan điểm của TT Thiệu khi trả lời cho phía Mỹ về mục đích cuộc di tản khỏi  QK I và QK II. Trong khi  tình hình quân sự mỗi ngày mỗi gia tăng, về mặt chính trị TT Thiệu  phải chịu  thêm áp lực từ  phía thành viên trong chính phủ, họ  muốn TT Thiệu sớm từ chức. Nhưng trước ngày  từ chức, TT Thiệu yêu cầu Mỹ giúp bảo vệ phần đất còn lại nếu có thể.  Phần trình bày sau dựa vào các băn văn được giải mật cách nay ít lâu của Bộ Ngoại Giao (Foreign Relations of the United States-FRUS), của Văn Khố Bộ Ngoại Giao (US Department of State Archive), và của Cơ quan CIA về biến cố 30.04.1975 và phơi bầy  tham vọng của Tướng Trần Văn Đôn.

**  Bảo vệ phần đất còn lại (Theo bản văn của Bộ Ngoại Giao FRUS)
* Ngày 13.04.1975 -  (BNG, Bản văn số 230: Martin to Kissinger):
- TT Thiệu (to Martin): "Tôi đã nghe nhiều ý kiến từ nhiều tầng lớp trong xã hội Việt Nam rằng mong muốn cho một Miền Nam được  tự do, có lẽ một giải phân chia từ Nha Trang đến Tây Ninh bây giờ sẽ là mong muốn có tính khả thi hơn nhiều.
- ĐS Martin (to Kissinger): " Theo tôi cho dù ông ta có nói gì đi nữa thì cũng phí công, không còn cơ hội để ông  ta lấy lại  những gì đã mất trong tháng qua. Tôi hỏi, thực tế  liệu sẽ   giải quyết được điều gì?"
- TT Thiệu: "Thiệu trả lời rằng nếu có thể vẽ một đường qua Nha Trang đến Ban Mê Thuột rồi đến Tây Ninh, thì đó sẽ là một đường phòng thủ và là một quốc gia khả thi về mặt kinh tế."
- ĐS Martin: "Tôi nói rằng sẽ khó có nhiều người đồng ý về  việc lấy lại Ban Mê Thuột trong tương lai gần. Ông Thiệu  đồng ý nhưng nói rằng đó phải là mục tiêu của bất kỳ cuộc đàm phán nào." [1]
 
**  Phó TT Trần Văn Đôn vận động muốn TT Thiệu từ chức
    * Ngày 16.04.1975 (Bản văn của cơ quan CIA)-" Phó Thủ tướng Trần Văn Đôn đang liên lạc với người phát ngôn của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Cộng. Đôn nói rằng phía Việt Cộng sẽ không bao giờ  đàm phán khi Thiệu còn làm tổng thống- the Viet Cong would never consider negotiations while Thieu remains president. Các cuộc thảo luận như vậy chỉ có thể bắt đầu với một chính phủ do một nhân vật "trung lập" đứng đầu và bao gồm các nhân vật "lực lượng thứ ba" và "cánh tả". Thành phần  chính phủ mới này bao gồm "các chính trị gia thân Mỹ -This new government could include "pro-American politicians." Đôn rõ ràng đã phát triển mối liên hệ này thông qua  trung gian của ông ta trong hơn một tuần qua-Don apparently has developed this contact through a trusted intermediary for over a week.  Ông ta  hiện đang mơ tưởng là  có thể đứng đầu một chính phủ phù hợp với phía Cộng sản- in a position where he conceivably could head a government suitable to the Communists.  Tuy nhiên, theo bản báo cáo mới nhất  cho thấy  động thái qua việc chia sẻ thông tin này,  Đôn coi như là cách gửi  tín hiệu cho phía Hoa Kỳ rằng họ nên gây áp lực buộc Thiệu từ chức- however, this latest report may be intended by Don as a signal to the US that it should exert pressure on Thieu to step down."
   Kịch bản mà  Đôn nói rằng đã nhận được tin tức từ người của ông ta đã tiếp xúc với Chính phủ Cách mạng lâm thời, có thể là một nỗ lực của phía Cộng sản nhằm  thuyết phục một người nào đó trong giới cao cấp của chính phủ Nam Việt Nam về một giải pháp chính trị cho cuộc xung đột này vẫn có thể xảy ra-the scenario that Don says he has been receiving from his PRC contact could be a Communist effort to persuade someone in senior South Vietnamese government circles that a political settlement of the conflict is still possible. [2]
 
  * Ngày 17.04.1975 (Bản văn của cơ quan CIA)-" Trong cuộc tiếp xúc đầu tiên vào tháng 4, Đôn một lần nữa được nhắc nhở rằng Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẽ không bao giờ  đàm phán khi Thiệu còn giữ cương vị  tổng thống.  Điều này  chỉ ra rằng  một chính phủ do Đôn đứng đầu sẽ được chấp nhận-The contact allegedly indicated that this meant a government headed by Don would be acceptable.  Đôn cho biết, phát ngôn viên của Chính phủ Cách mạng Lâm thời nói rằng chiến lược của Cộng sản "vào lúc này" là cô lập Sài Gòn.
  Trong một cuộc tiếp xúc vào ngày 14 tháng 4, ông ta cho biết đã được phiá  VC thông báo rằng  Đôn nên nắm quyền kiểm soát chính phủ "trong vòng 72 giờ" và kêu gọi ngừng bắn. Và tất cả người Mỹ sẽ được phép rời khỏi đất nước ngoại trừ một số người  thuộc thành phần"cốt cán".   Ngoài ra, bất kỳ người Việt Nam nào muốn rời đi, bao gồm cả những người ở Huế và Đà Nẵng, cũng sẽ được ra đi an toàn. Cũng theo Đôn, phát ngôn viên của Chính phủ Cách mạng Lâm thời  nhấn mạnh  rằng phía Cộng sản sắp hết kiên nhẫn trong "một hoặc hai tuần tới". Sài Gòn sẽ an toàn trong thời kỳ đó, nhưng, nếu cuộc đàm phán chưa bắt đầu thời  các lực lượng Cộng sản sẽ "vào vị trí" để tiếp quản thành phố.[3]

Ngày 18.04.1975 (Bản văn của cơ quan CIA)-"Phó Thủ tướng Nam Việt Nam Trần Văn Đôn cho biết  đã liên lạc với  người trung gian của Chính phủ Cách mạng Lâm thời,  và họ cho hay rằng việc di tản của người Nam Việt Nam sẽ được thực hiện sau khi thay  đổi  chính quyền ở Sài Gòn - Đôn là một kẻ cơ hội và chúng tôi nghi ngờ về tính trung thực của ông  ta.- Don is an opportunist and we are skeptical about his veracity.".[4]
Ngày 18.04.1975 (BNG bản văn số 238) - BNG: " Martin đã gửi  điện văn  dài đánh giá  về tình hình Việt Nam cho Kissinger  vào ngày 17 tháng 4.  Đại sứ viết: “Nếu có một cuộc bỏ phiếu, Thiệu sẽ  bị kết thúc. Đôn hiện là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, rất háo hức  muốn  tiến  trình đàm phán (với phe VC) được bắt đầu- Don, now Minister of Defense, are most eager to get the negotiation process started. Tôi  (Martin) nói rằng bất kỳ sự thay đổi nào là việc của người Việt Nam, nhưng đối với tôi dường như tiến trình đàm phán không thể bắt đầu khi Thiệu còn nắm quyền-to me that the essential process of negotiations cannot be started with Thieu in power. Tôi (Martin) sẽ đến gặp Thiệu và nói với ông ta điều tương tự,  rằng tôi chỉ nói theo ý của  riêng mình, và rằng tôi  nói với tư cách là một người bạn đã luôn nói với ông ta toàn bộ sự thật,... và  lịch sử sẽ  ghi lại tất cả những công việc  quan trọng mà ông ta đã  hoàn thành, bằng  không, nếu ở lại cương vị  quá lâu, sẽ không  thực hiện được kế hoạch nhằm  cứu vãn những gì còn lại để Việt Nam trở thành một quốc gia tự do. Tôi sẽ nói rằng đó là kết luận khách quan  của tôi và rằng nếu ông ta không làm điều này, các tướng lĩnh của ông ta sẽ buộc ông  ta phải ra đi-if  he does not do this, his generals will force him to depart. Tôi sẽ nói rằng  nên chọn lựa  sự ra đi trong danh dự  theo cách của ông ta, và hãy nói với đồng bào của ông ta rằng, ông ta  làm như vậy để bảo vệ tính hợp  hiến  và sẽ giúp chính quyền kế nhiệm đàm phán trong tư thế mạnh hơn  nhằm  bảo toàn một Việt Nam tự do. Tôi có thể nói rằng đó sẽ là một hành động chỉ có thể được thực hiện bởi một người có lòng dũng cảm, một người biết đặt lợi ích của quốc gia  lên trên hết". [5]
* Ngày 18.04.1975 (BNG, bản văn số 241)- TT Thiệu gặp Đại sứ Pháp - BNG (Martin to Kissinger): " Theo sự thúc giục của tôi, Thiệu đã gặp Đại sứ Pháp, cả hai chúng tôi đều nghĩ rằng sẽ không khôn ngoan, có khi còn làm trầm trọng thêm mối nghi ngờ sâu sắc về sự thông đồng giữa Pháp và Mỹ đang ẩn sâu ở nơi đây-Franco-American collusion that is deepseated here. Nếu có bất kỳ tin tức gì từ Paris, sẽ hoan nghênh nhất trước khi tôi gặp Thiệu." [6]
* Ngày 20.04.1975- ( BNG, bản văn số 244- Martin to Kissinger)-  ĐS  Martin thuyết phục TT Thiệu ra đi - ĐS Martin:" Một vài điều rất rõ ràng đối với tôi. Tình hình quân sự rất tồi tệ, và mọi người quy trách nhiệm cho ông Thiệu. Từ tầng lớp chính trị, đến những người ủng hộ và cả các đối thủ  của ông ta, đều không tin rằng ông  Thiệu có thể lèo lái đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay. Phía các tướng lãnh tuy  họ sẽ tiếp tục chiến đấu, nhưng họ đều tin rằng việc phòng thủ là vô vọng trừ khi có  thời gian được nghỉ ngơi trong khi bắt đầu tiến trình đàm phán, và họ không tin rằng điều này có thể bắt đầu trừ khi Thiệu ra đi. Tôi nói rằng đó là cảm nghĩ của tôi  nếu ông  ta không sớm đưa ra quyết định, thời các tướng của ông ta sẽ yêu cầu ông  ta ra đi-I said that it was my feeling that if he did not move soon, his generals would ask him to go.
    Thiệu chăm chú lắng nghe. Ông hỏi liệu việc ra đi của ông ta có ảnh hưởng đến cuộc bỏ phiếu tại quốc Hội Mỹ về khoản viện trợ  hay không. Tôi nói rằng tôi nghĩ nó có thể đã thay đổi  tại thời điểm  vài tháng trước, nhưng bây giờ sẽ không thay đổi  về các khoản chiến dụng quân sự cần thiết. Nói cách khác,  việc từ chức để đảm bảo Quốc hội (Mỹ) cung cấp viện trợ để miền Nam Việt Nam tồn tại thời việc này đã thuộc về chuyện quá khứ. Đối với hiện tình Việt Nam, nếu có thể tránh được sự tàn phá của Sài Gòn, và nếu một nước Việt Nam độc lập có thể tiếp tục tồn tại, cho dù đó là  hy vọng mong manh.
    Cuộc trò chuyện diễn ra trong khoảng một tiếng rưỡi. Ông ta hoàn toàn hiểu điểm cốt yếu về sự đánh giá của cá nhân tôi, rằng thời gian thì rất cấp bách, cần sớm đưa ra quyết định  trong khi các sự kiện đang diễn ra quá nhanh, và nếu ông ta không ra đi  sớm, ông ta sẽ gặp nhiều khó khăn. Tôi đã nói rõ ràng rằng tôi đang nói hoàn toàn với tư cách cá nhân, cũng như Washington, không đề nghị ông từ chức.
    Ông Thiệu nói rằng  ông ta sẽ làm những gì  tốt nhất cho đất nước-Thieu said he would do what he thought was best for the country. Tôi nói,  tôi biết ông ta  sẽ thực hiện được.  Tôi đoán rằng ông ta  sẽ rời đi trong thời gian ngắn bằng cách này hay cách khác. Nếu phía các tướng lãnh cho ông  ta thêm vài ngày nữa, ông  ta có thể sẽ đưa ra quyết định từ chức -If his generals give him a few more days he may well come up with a dramatic resignation that will be useful."[7]
 
** Hồi ký Trần Văn Đôn: Việt Nam Nhân Chứng
* Ngày 20.04.1975 -Theo hồi ký: Việt Nam Nhân Chứng của tác giả Trần Văn Đôn (Phó Thủ Tướng):
        "Ngày 20.04.1975, lúc 10 giờ sáng Đại sứ Mỹ Martin đến gặp Tổng Thống Thiệu tại dinh Độc Lập báo cho ông Thiệu rõ tình hình :
  Muốn chận cuộc tiến quân của Việt Cộng phải có một giải pháp chính trị, cần phải nói chuyện với Hà Nội.  Đại sứ Martin cũng cho biết Quốc Hội và Chính Phủ Hoa Kỳ sẽ ngưng viện trợ nếu ông Thiệu còn tại chức.

- Nếu tôi là trở ngại, vậy tôi từ chức. Quốc Hội Hoa Kỳ có thể thay đổi lập trường tiếp tục viện trợ cho miền Nam không?
- Nếu Tổng Thống từ chức, Quốc Hội Mỹ có thể viện trợ trở lại.
Đại sứ Mỹ Martin sau này kể lại mẫu đối thoại giữa ông (ta) với ông Thiệu :
- Chánh phủ Hoa kỳ không đòi Tổng thống từ chức, nhưng Tổng thống nên đề cử một ông Thủ Tướng toàn quyền như Bảo Đại đã làm năm 1954 để ông Thủ Tướng đó thương thuyết với phía bên kia.
- Theo ông ai có thể làm Thủ Tướng toàn quyền.
Martin trả lời ngay :
- Đại Tướng Dương Văn Minh.
Ông Thiệu im lặng không đáp.
Cũng trong ngày 20.04.75, lúc bốn giờ chiều tôi đến gặp Đại sứ Martin tại sứ quán, Martin kể lại với tôi và nói với tôi :
- Thật sự lúc đó tôi muốn ông (Trần Văn Đôn) làm Thủ Tướng toàn quyền hơn là ông Minh, nhưng Hà nội lại chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi." 
[8]
 
Như  phần đã viết theo cơ quan CIAphía Mỹ nghi ngờ về tính trung thực của ông  ta- we are skeptical about his veracity"  nên đã  gạt tướng Đôn ra rìa, dù rằng tướng Đôn đã bắn tiếng cho phía Mỹ biết:"rằng một chính phủ do Đôn đứng đầu sẽ được chấp nhận", và một  thực tế khác về vấn đề  đàm phán thuộc thẩm quyền của phía Bắc Việt trong khi  Tướng Đôn lại đi liên hệ với phía VC Miền Nam.

Ngày 21.04.1975 (BNG, bản văn số 250- Kissinger to Martin)- "Ngày 21 tháng 4, các nhà ngoại giao Pháp tiến hành nỗ lực thành lập chính phủ lâm thời ở Sài Gòn để làm chậm lại tiến trình  chuyển giao cho chế độ Cộng sản. Ông  nên biết rằng chúng tôi hoàn toàn không liên quan gì đến sáng kiến của Pháp.  Đối với Liên Xô, chúng tôi đã đề nghị một lệnh ngừng bắn tạm thời (khoảng hai tuần) để di tản người Mỹ và một số người Việt Nam và thảo luận về các vấn đề  chính trị." [8]

Ngày 21.04.1975 - TT Thiệu tuyến bố từ chức - Trong diễn văn từ chức được   trực tiếp  trên đài truyền hình Việt Nam,  TT Thiệu tuyên bố:" ...Hứa rằng cộng sản xâm phạm thì sẽ phản ứng, không phản ứng, thì chỉ còn chuyện tối thiểu là đưa đồ cho người ta đánh mà không đưa, thử hỏi cái đó là cái gì?  Thất  hứa,  thiếu  công  bằng,  thiếu  tín  nghĩa,  vô  nhân  đạo,  đốt  một đồng  minh  đang  chịu  đau  khổ,  trốn tránh trách nhiệm của một đại cường quốc …Sở dĩ tôi từ chức hôm nay là bởi vì  hôm nay  bên Hoa Kỳ quốc hội mang vấn đề viện trợ quân sự ra mổ sẻ. Tôi nghĩ hành động tôi từ chức hôm nay, biết đâu rằng tiền viện trợ sẽ từ 300 lên 722 triệu hay lên một tỉ...không sớm hơn, mà không trễ hơn, bởi vì tôi nghĩ rằng cái thời gian tính mà hôm nay cho thấy rõ cuộc diện quân sự của cả chiến trường miền Nam...”. [9]
 
Ngày 29.04.1975 - Theo tác giả: Pierre Darcourt
" Vào cuối buổi chiều thì tướng Trần văn Đôn và con trai ông ta, một bác sĩ, được một chiếc trực thăng bốc đi. Trước đó vài giờ, rất lịch sự như ông đã nổi danh, ông đã đến từ giã vị Đại sứ` Pháp... và luôn tiện cũng để nhận thông hành Pháp của ông. Ông M. M. Mérillon cũng đã có một vài lần nhờ vã đến tướng Đôn.. Từ nhiều tháng qua, và nhất là trong cơn khủng hoảng của Chánh Phủ vừa qua, tướng Đôn được coi như là một phụ tá rất đắc lực cho hoạt động trung gian chánh trị của người Pháp. Ông đã trực tiếp thúc đẩy tướng Dương văn Minh đi tới, và trước Quốc Hội lưỡng Viện ông đã có một buỗi thuyết trình quá thảm hại về tình hình quân sự. Có một lúc nào đó, ông M. Mérillon đã mong muốn đẩy ông Đôn vào ghế Thủ Tướng của ông Minh. Hôm chiều thứ hai, chấn động vì sự chống đối nhau giữa các trung tâm chánh trị của Miền Nam, tướng Đôn đã có ý định tự tử. Nhưng sau đó được giới thân cận lên giây cót an ủi...nên cuối cùng đã quyết định nhờ Mỹ đưa đi. Trước khi lên trực thăng, tướng Đôn đã nói với toán binh sĩ cận vệ của ông, những người đã không rời khỏi ông nửa bước, rằng:
"Tôi bắt buộc phải ra đi thôi, vì nếu bọn cộng sản mà tóm được tôi thì tôi sẽ bị bọn chúng hành quyết ngay. Còn các anh, các anh chỉ là cấp nhỏ, các anh chẳng có gì nguy hiểm hết... và các anh có thể lẫn lộn được trong dân chúng." 
[10]

** TT Thiệu bất bình với  Mỹ về nội dung hiệp định Paris 73
     Nhiều nhà phê bình cho rằng việc TT Thiệu gay gắt lên án Mỹ là vì đã có sự bất đồng quan điểm từ cuối năm 1972, khi  phía Mỹ ép TT Thiệu phải ký một thỏa hiệp đình chiến mà phía VNCH phải chịu phần thua thiệt, để rồi dẫn đến biến cố  30.04.1975.  Xin trích đoạn  các cuộc trao đổi  trong năm 1972 được phía Bộ Ngoại Giao công bố, bàn về nội dung thỏa hiệp đình chiến 27.01.1973.
 
* Ngày 21.10.1972 - BNG (Haig to Kissinger):" Theo quan điểm của tôi, cơ hội để Thiệu chấp thuận là rất mong manh-the chances of getting Thieu to acquiesce are very slim, và chúng tôi sẽ phải tính toán lại ngay sau cuộc họp để  xem có nên đưa ra phản ứng nào cho phía VNDCCH và đặc biệt là phía Moscow. ..., chúng tôi không thể thuận  theo ý kiến của ông Thiệu, và do đó, điều cần thiết là chúng tôi phải gặp họ khẩn cấp tại Paris để tìm ra những giải pháp thay thế có thể không bao gồm phía Nam Việt Nam-to work out alternate arrangements which might not include the South Vietnamese." [11]
 
* Ngày 22.10.1972 -BNG:Thiệu đã đột ngột từ chối chấp nhận tất cả các điều khoản đã dàn xếp. Vụ Hà Nội rò rỉ thông tin gây tác hại  ngay khi các cuộc đàm phán với Thiệu đang ở thời điểm quan trọng và dường như đang đi đến kết quả thuận lợi. Nếu không có Thiệu, trước mắt không thể tiến hành thực hiện hiệp định như đã vạch ra. Tiến sĩ Kissinger cũng không thể đi Hà Nội vào  thời điểm hiện tại cho dù các cuộc đàm phán bổ sung đã được chuẩn bị với giới lãnh đạo VNDCCH ở Paris hoặc nơi khác."[12]
 
Việc TT Thiệu từ chối ký thỏa hiệp (01.1973) gây nhiều trở ngại cho phía Mỹ, vì vậy phía  Mỹ  phải tìm cách trấn an phía Liên Xô và Trung Quốc. Hai văn bản sau đã xác nhận điều này:
- Với Liên Xô : " Đối với thông điệp gửi tới Dobrynin, vui lòng cho tôi biết quan điểm của bạn về việc có hay không cuộc gặp cá nhân giữa Tổng thống và Dobrynin vào chiều nay, ... cách tốt nhất  giữ cho Brezhnev và các đồng chí của ông ta  ở trong  tư thế trong tinh thần xây dựng."
 - Với Trung Quốc: " Đối với CHND Trung Hoa,  nên theo đuổi những điểm ghi trong  văn bản  sẽ được gửi cho đại diện của chúng ta vào tối nay ở New York, nhưng  văn bản sẽ được sửa đổi để gắn kết chặt chẽ hơn trong quan hệ của chúng ta với họ." [13]
 
Theo các tài liệu phổ biến sau này, việc  TT Thiệu từ chối ký thỏa Hiệp còn phải chịu sự đe dọa đến an nguy của tính mạng...
 
* 20.01.1973 - "Cut Off His [Thieu's] Head "- Vì e ngại TT Thiệu không ký thỏa hiệp đình chiến Paris vào ngày TT Nixon nhậm chức TT nhiệm kỳ 2, ngày 20 tháng 1 năm 1973, nên  trong cuộc trao đổi trên  điện thoại  giữa TT Nixon và TS Kissinger, TT  Nixon đã nói:
Audio 1- "Nixon một lần nữa tuyên bố rằng  có thể không cần Nam Việt Nam tham gia vào hiệp định hòa bình -Nixon again states that U.S.-ally South Vietnam may not be part of peace agreement."[14]
Audio 2 - "Tôi không biết liệu mối đe dọa có đi quá xa hay không, nhưng tôi sẽ làm bất kỳ điều chết tiệt nào, đó là, hoặc cắt đầu [của Thiệu] nếu cần thiết- I don't know whether the threat goes too far or not, but I'd do any damn thing, that is, or to cut off his [Thieu’s] head if necessary." [15]

* TT Nixon chê cách hành xử của TT Kennedy về vụ 1963
Phần trên viết về sự kiện xẩy ra đầu năm 1973, TT Nixon  đe dọa TT Nguyễn Văn Thiệu nếu không thuận theo Mỹ, nhưng trước đó 3 năm, vào  năm 1970  TT Nixon đã đưa ra lời  phê bình về cách chính phủ Kennedy đối xử với TT  Ngô Đình Diệm:" ...chúng tôi sẽ không làm như cách chính quyền Kennedy đã đối xử với Diệm- we’re not about to engage in what the Kennedy administration did with Diem..., chúng tôi không cư xử như thế  với bạn bè  chúng ta-we don’t do that to our friends.Thật không may cho chính quyền Kennedy, tay họ  đã dính  máu của Diệm. Đó là một  giải pháp  tồi tệ The Kennedy administration has Diem’s blood upon its hands, unfortunately. That was a bad deal." [16]
 
Mở ngoặc để viết về việc "cách chính quyền Kennedy đã đối xử với Diệm", theo  tài liệu Quốc Phòng, vì TT Diệm trì hoãn việc thực hiện chính sách CIP, cho nên:" Các cuộc đàm phán với Diệm đã kết thúc vào tháng Năm (1961), không phải vì các vấn đề đã được giải quyết ...Galbraith khuyên Kennedy chẳng có gì đáng để mặc cả với ông Diệm, vì ông ta sẽ không bao giờ thực hiện...Galbraith ủng hộ việc tiến hành một cuộc đảo chính quân sự chống Diệm vào thời điểm thuận tiện- Galbraith favored promoting an anti- Diem military coup at the earliest convenient moment"-(5.1961),( chi tiết về sự liên hệ Mỹ-VNCH 1961 xin coi...) [17]

Trong bối  cảnh hoàn toàn  bất  lợi cho phía VNCH ghi trên, Hiệp định đình chiến Paris ra đời ngày 27.01 1973 để rồi dẫn đến biến cố 30.04.1975.  Theo tài liệu công bố  sau này thì phía Mỹ thuận theo yêu cầu  của Trung Quốc  là Mỹ   rút quân  ra khỏi Việt  Nam để cùng hợp tác chống Liên Xô. 
Xin nhường bạn đọc đưa ra nhận xét và phê bình về các sự việc trên. Tuy  nhiên, để bạn đọc biết thêm về quan hệ Mỹ-Trung trong chiến tranh tại Việt Nam - người viết sẽ  ghi lại cuộc đối thoại giữa TT Nixon, TS Kissinger và TT Chu ân Lai  năm 1971 và 1972  (kể cả về cuộc chiến Hạ Lào 1971 trong cuộc đối thoại Mỹ-Trung 1972) được ghi lại trong  tài liệu của Bô Ngoại giao. (Vào năm 2002, thư Viện Nixon đã cho công bố nhiều tài liệu liên quan đến chiến tranh Việt Nam sau 30 năm bảo mật, nhưng nay sau  45 năm, nhiều bản văn  loan tải trên FRUS và trên US.DOSA đã cho đọc nhiều đoạn văn trước đây bị  bôi đen), sự việc sẽ trình bày tại bài viết sau và về " Học thuyết Nixon - The Nixon Doctrine 1969."
Đào Văn
Tài liệu tham khảo.
[3]- CIA Library, 17.04.1975 (trang 5)-VC chấp nhận Chính phủ do Đôn cầm đầu
[4]- CIA Library, 18.04.1975 (trang A14)-CIA nghi ngờ tính trung thực của tướng Đôn
[10]- Truyen Hình VNCH-
Video clip-Diễn văn từ chức  của TT Thiệu  21.04.1975
[11]- Sach Truyện-Pierre Darcourt-VN QM Oan Khiên:Chg 23: Sự Rẫy Chết Của Một Thành Phố
[14]- Nixon tape audio Org (mp3):-Agreement_without_Thieu
[15]- Miller Center:- a)- Audio mp3" cắt đầu ...nếu cần thiết"
                               -b)- text: Cut Off His [Thieu's] Head
[16]Văn Khố BNG-Foreign Relations, Volume XVI-Conversation...June 30, 1971, trang 96
[17]- Văn Khố QG-Pen.Papers.Part IV.B.1.Evolution of the War:Problems With the Diem Government


.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hội Đồng Giám Sát Quận Cam đã bỏ phiếu với tỉ lệ 5 trên 0 vào chiều Thứ Ba, 28 tháng 4 để mở cửa các cơ sở kinh doanh với những hướng dẫn bảo đảm sự an toàn của công chúng. Các hướng dẫn được giới thiệu bởi nữ Chủ Tịch Michelle Steel và Giám Sát Viên Don Wagner được thông qua bởi hội đồng sẽ áp dụng như mô hình cho Quận Cam để trở lại tình trạng sinh hoạt bình thường, theo các viên chức cho biết. Theo hội đồng, “Tất cả đề nghị theo Cơ Quan Chăm Sóc Sức Khỏe Quận Cam và không thay thế bất cứ lệnh mâu thuẫn hay hạn chế nào được đưa ra bởi các chính quyền địa phương, Tiểu Bang California, hay Chính Phủ Liên Bang.” “Quận Cam đã “làm thẳng đường cong” một cách hiệu quả.”
Dân Biểu Liên Bang Hoa Kỳ Alan Lowenthal (CA-47) ngày hôm nay đã đệ trình Nghị Quyết Hạ Viện ghi nhận biến cố lịch sử quan trọng và tưởng niệm 45 năm ngày Sài Gòn thất thủ và sự sập đổ bi thảm của Việt Nam Cộng Hòa. Vào ngày 30 tháng 4, năm 1975, Sài Gòn, thủ đô Việt Nam Cộng Hòa đã bị lực lượng Cộng sản xâm chiếm trong Tháng Tư Đen và Sài Gòn đã bị thất thủ. Mỗi năm biến cố trọng đại này được các cộng đồng người Mỹ gốc Việt khắp Hoa Kỳ tổ chức tưởng niệm.
Nhân dịp lần thứ 45 tưởng niệm biến cố Tháng Tư Đen, Dân Biểu Liên Bang Harley Rouda (Địa Hạt 48) đã gởi thông điệp đến với cộng đồng Người Mỹ gốc Việt tại Quận Cam: Trong thông điệp này, Dân Biểu Rouda cũng nhắc đến những người trong cộng đồng chúng ta mà ông vừa vinh danh: Tướng Lê Minh Đảo, nhạc sĩ Trúc Hồ, Bác Sĩ Phạm Đỗ Thiên Hương.
Tuần này sẽ đánh dấu nhiều mốc ngoặc mới trong đại dịch vi khuẩn corona khi các trường hợp bị lây nhiễm tại Hoa Kỳ đã hơn 1 triệu, ngày càng có nhiều cơ sở kinh doanh tái mở cửa và một số nhân viên y tế địa phương bắt đầu thử nghiệm kháng thể cho công chúng, theo bản tin của CNN cho biết hôm Thứ Hai, 27 tháng 4 năm 2020. Tính tới Thứ Hai, Hoa Kỳ đã có 1,008,571 trường hợp bị lây, với 56,521 người thiệt mạng.
3 videos ngắn cho thấy “hiện tượng xuất hiện trong không gian không xác định” đã được công bố bởi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Các video, đã được phổ biến trước đây bởi một công ty tư nhân, cho thấy cái gì đó trông giống các vật bay không xác định di chuyển nhanh trong khi được thu hình bởi các máy thu hồng ngoại tuyến, theo CNN tường trình cho biết. 2 trong 3 video, các quân nhân có thể nghe được sự phản ứng các vật bay nhanh như thế nào. Một giọng nói cho thấy nó có thể là một chiếc robot.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tối nay 22 Tháng Tư, chính quyền Trump đã ban hành một Sắc lệnh mở rộng những hạn chế về nhập cư trong một nỗ lực rộng lớn để tiếp tục chương trình bài ngoại nhằm đánh lạc hướng người Mỹ về thất bại của chính họ qua các giải pháp thích ứng với đại dịch coronavirus. Sắc lệnh này được xây dựng trên một số chính sách chống người nhập cư do chính quyền đưa ra trong vài năm qua đóng cửa gần như tất cả các con đường hợp pháp để nhập cư.
Bắt đầu từ sau giữa tháng Ba 2020, hầu hết các doanh nghiệp không thiết yếu trên khắp Hoa Kỳ đều đã lần lượt được lệnh phải đóng cửa để ngân chận sự lây lan của Coronavirus, trong đó có hàng chục ngàn tiệm Nail của người gốc Việt. Vì buộc phải đóng cửa một cách bất ngờ và cũng bởi chưa đến ngày trả lương theo định kỳ, nhiều chủ tiệm Nail đã không kịp thanh toán cho nhân viên khoản tiền lương của những ngày đã làm việc từ sau lần lãnh lương trước đó cho đến ngày ngưng làm việc vì Coronavirus. Ngoài ra, vì nghĩ rằng sẽ không bị buộc phải đóng cửa quá lâu, nhiều chủ tiệm Nail dự tính sẽ trả đủ tiền lương ngay khi nhân viên trở lại làm việc. Tuy nhiên, rất ít chủ doanh nghiệp hiểu rằng không thanh toán tiền lương theo đúng quy định cho nhân viên sau khi nghỉ việc, sẽ là nguyên nhân dẫn đến vô số rắc rối về pháp lý.
Những người có khuynh hướng cực đoan trong chính kiến, dù hữu khuynh hay tả khuynh, đều có những đặc điểm giống nhau và rất khác người ôn hoà. Bài viết này tóm lược một nghiên cứu tâm lý học đăng trên Sage Journals tháng Giêng 2019. Hy vọng nó sẽ giúp ta hiểu thêm về hiện tượng tâm lý chính trị cực đoan để tránh bị khích động, đồng thời giúp ta tìm ra cách hoá giải. Xin lưu ý “hữu khuynh”và “tả khuynh” trong bài được dùng theo định nghĩa thông thường và hoàn toàn không hàm ý tốt hay xấu. Trong chính trị học, cộng đồng con người thường được chia làm ba nhóm: cấp tiến (liberal), trung hoà (moderate) và bảo thủ (conservative). Sự phân cách này phần lớn xuất phát một cách tự nhiên, nhưng nó cũng có thể được nhào nặn thêm bởi giáo dục, truyền thống, truyền thông, xã hội v.v.
nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Chết phải là một chuyến du lịch tuyệt vời vì chưa có một ai đã trở về!(“La mort doit être un beau voyage puisque personne n'en est revenue”). Thông thường trong những dịp Tết, người đời thường chúc tụng lẫn nhau sống thọ đến trăm tuổi. Không phải ai muốn chết lúc nào là chết được đâu. Phải tới số mới chết. Trời kêu ai nấy dạ mà Sống quá thọ có tốt, có cần thiết không? Không có ai nghĩ giống ai hết. Đặt câu hỏi như trên có thể làm nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng đó là sự thật. Tuổi thọ (longévité) trong điều kiện sức khoẻ bình thường, không ngừng gia tăng thêm lên mãi tại các quốc gia kỹ nghệ giàu có... Sự gia tăng nầy thật ra phải được xem như là một sự kéo dài của tuổi trẻ (jeunesse) hơn là một sự kéo dài của…tuổi già (vieillesse). Tại sao chúng ta già? Tuổi thọ đến lúc nào sẽ dừng lại? Nhân loại đã đạt được đến mức nầy hay chưa?
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.