Hôm nay,  

Nguyễn Lương Vỵ - Vấn nạn của cái Being

10/02/202200:18:00(Xem: 6296)

blank
  

Nguyễn Lương Vỵ - Vấn nạn của cái Being
.
Trịnh Y Thư
.

Có thể nói những bài thơ trong tập thơ Năm Chữ Ngàn Câu của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ (xuất bản cuối năm 2014) là những biến tấu liên miên bất tận của cái Being.
 
Being chứ không phải đời sống như chúng ta thường hiểu. Bạn có thể gọi nó là kiếp nhân sinh, kiếp người, đời sống, hữu thể, hiện tồn, hiện hữu, hiện sinh, hiện tính, thể tính, hoặc cả chục từ ngữ khác tương tự. Nhưng xin bạn cho phép tôi gọi nó bằng cái từ tiếng Anh Being. Giản dị, hàm súc, nhưng hết sức bao la, gợi mở. Dịch sang tiếng Việt, gọi nó là “đời sống” hoặc “kiếp người” thì không đủ nghĩa, còn các thuật ngữ Hán-Việt thì bị tô đậm bởi màu sắc Triết học nặng nề, khó hiểu. Kỳ thực, dưới luồng sáng của Triết học, Being được định nghĩa là, “Một hình thái ý thức chủ quan lẫn khách quan lý giải thực tại và sự hiện hữu.” Các triết gia Hy Lạp cổ đại nói nhiều về nó. Sang thời cận, hiện đại các triết gia như Hegel, Heidegger, Sartre, v.v… cũng tốn khá nhiều giấy mực về nó. Tuy nhiên, bởi không mấy mặn mà với Triết học nên tôi thích hiểu từ Being theo cái nhìn của thi ca, một suy nghiệm giao thoa giữa thực tại và huyễn mộng, bằng một thứ ngôn ngữ trong suốt chứ không dày đặc thuật ngữ vốn rất dễ đưa người ta sa vào chốn hỏa mù. Being dưới mắt nhìn của thi ca, có lẽ đơn giản hơn và dĩ nhiên “thơ” hơn. Vì nó, Shakespeare băn khoăn, “to be or not to be”; Nguyễn Du gọi nó là “cuộc bể dâu [với] những điều trông thấy mà đau đớn lòng”; gần chúng ta hơn, Milan Kundera gọi nó là cái “hệ toán hiện sinh”; và nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ, với tinh thần cụ thể Việt Nam tính, thấy gì nói đó, gọi nó là “bầu trời lộn ngược.” Hiển nhiên, các thi sĩ cũng đã tốn không ít giấy mực cho cái Being mà tập thơ Năm Chữ Ngàn Câu của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ này là tốn kém mới nhất.
   
Mở tập thơ, tôi bắt gặp ngay thái độ và câu trả lời của nhà thơ, mà tôi đặc biệt yêu thích và tâm đắc, về cái Being, “Hỏi ta vui hay buồn? Theo nắng sáng xuống phố!” (Âm cuối thu). Một thái độ trầm tĩnh thấm đẫm tinh thần Đạo giáo đông phương! Nhẹ nhàng. Phơi phới. Thong dong. Không cần đi vào những suy nghiệm siêu hình mà lại tác động mạnh mẽ lên cảm xúc, đó là lợi thế của thi ca trên Triết học. Câu thơ biểu hiện một ý thức trong sáng nắm bắt được lẽ sống thiên nhiên, thấu hiểu lẽ đời và những hữu hạn tất yếu của con người sinh sống trong đó. Sống hài hòa với những quy luật tự nhiên, sống nương theo lẽ đời chứ không chinh phục cuộc đời; sống luôn luôn khiêm tốn, chẳng bao giờ dám vọng động đến độ tự nhận mình là đỉnh cao (mà khiếp hãi nhất là đỉnh cao trí tuệ). Phải chăng đấy là triết lý sống của người xưa mà ngày nay chúng ta gần như quên bẵng?
  
Theo tôi, nhà thơ chẳng cần phải trả lời câu hỏi đời buồn hay vui, bởi cuộc truy tìm ấy là một “nghịch lý chung cuộc”, nếu tôi được phép vay mượn cụm từ này của Kundera. Một nghịch lý “hết thuốc chữa” của cái Being. Và, với Nguyễn Lương Vỵ, nó là “Dấu hỏi hẳn đã chìm trong mộ, Hay vẫn lang thang trên đường về?” hay “Dấu hỏi giữa hư không thầm nhắc, Xa lòng giấc mộng vẫn cầm canh.” (Dấu hỏi giữa hư không). Mọi suy diễn và lý giải về cái Being đều mang nặng tính chủ quan và không thực. Quan trọng hơn, nó sẽ không đi đến đâu và giải quyết được gì cho chính bản thân chúng ta, nói gì đến tha nhân. Nhà thơ là kẻ nhạy cảm với đời sống hơn ai hết, đau cái đau của nhân sinh, vui cái vui của đồng loại, nhưng đừng kêu gọi nhà thơ cho lời giải đáp của cái “hệ toán hiện sinh” kia. “Đời thơ không khổ nạn, Làm sao thấu được thơ?” (Không đề IV). Bởi nó là câu hỏi giữa hư không.
  
Không có câu trả lời nhưng cũng không tuyệt vọng. Vâng, nhà thơ chìm đắm trong nỗi buồn, từ nỗi buồn vạn cổ cho đến nỗi buồn vu vơ, nhưng nhà thơ không tuyệt vọng. Quả thế, tôi không hề tìm thấy một ý nghĩ tuyệt vọng nào trong thơ Nguyễn Lương Vỵ. Ngược lại là đằng khác. Cho dù “khổ nạn” bao nhiêu chăng nữa, nhà thơ vẫn “xanh” như trong bốn câu, “Thánh ca rồi cũng tan, Cầm dương rồi cũng tạnh. Lạnh lạnh lạnh lạnh lạnh, Thi sĩ đã về xanh.” (Không đề VIII).
 
Ugo Betti, nhà văn kiêm kịch tác gia người Ý có lần nói, “Tại bất cứ giây phút nào tôi mở mắt, tôi đều hiện hữu. Còn trước đó, trong suốt cái vô hạn, là cái gì? Thưa, không là gì cả.” Một tình cờ thật thú vị, tôi tìm thấy ý tưởng này của ông nhà văn viết cách đây gần ba phần tư thế kỷ trong mấy câu thơ sau của Nguyễn Lương Vỵ, “Mộng ngày quên hỏi lại, Chùm bông dại bay rồi. Lòng tay vắng tiếng trời, Biết làm sao gặp được. (Phải vậy không?). Sư thật là, chỉ cần sống, chỉ cần hiện hữu trên mặt thế gian này đã đủ cho nhà thơ cảm thấy toại nguyện, “Sống cho trọn kiếp, nào phải trò trẻ con.” Câu thơ của Boris Pasternak trong bài thơ bất hủ Hamlet. Tôi nghe kể hôm nhà thơ qua đời, nhà nước Xô-viết chẳng những không loan báo mà còn tìm mọi cách ngăn cản người tiễn đưa thi hào quá cố ra huyệt mộ. Thế nhưng vẫn có vài ngàn người đến dự đám tang ông. Chừng chục người ghé vai khiêng quan tài, nắp áo quan mở toang, họ vừa đi vừa cất giọng trầm hùng đọc to bài thơ Hamlet như lời tiễn đưa vĩnh biệt nhà thơ vĩ đại của dân tộc họ. Tôi chạnh nghĩ, thực ra họ đọc lời tâm nguyện sống như ông đấy. Sống cho trọn kiếp! Ôi, một điều khó khăn vô hạn!
  
Người là con vật duy nhất mà cái Being của riêng hắn là vấn nạn chỉ mình hắn giải quyết. Sự vĩ đại của con người không nằm ở những thành tựu chính trị hay kinh tế, không ở chỗ “thành công hay thành nhân,” mà chính ở chỗ hắn can đảm sống và sống cho trọn kiếp. Âm nhạc của Beethoven không ca ngợi con người anh hùng hay cá nhân thần thánh. Nó là bản tụng ca cho cái tinh thần sống như con người. Và đừng quên câu nói bất hủ của Jean-Paul Sartre, như nguyên lý thứ nhất cho Triết học Hiện sinh, “Con người chẳng là cái gì ngoài cái hắn tạo dựng nên chính hắn.”
 
*
 
Mặc dù tự nhận mình có sống trong mộng ảo trong những câu thơ sau, “Cuối đời càng lắm mộng, Đêm về mộng am mây. Ngày ủ trong lòng tay, Ngát thơm chùm bông dại.” (Phải vậy không?). Thế nhưng Nguyễn Lương Vỵ không có xu hướng quay về cõi mộng như rất nhiều nhà thơ miền Nam Việt Nam thuộc thế hệ trước. (Một hiện tượng khá lạ bởi trong một đất nước tơi bời khói lửa chiến tranh mà chỉ có vài ba thi sĩ nói về chiến tranh). Không quay về cõi mộng, Nguyễn Lương Vỵ cũng tuyệt đối rũ bỏ son phấn lụa là. Bạn sẽ không tìm thấy những thi ảnh kiểu “em buông tóc kiêu sa đi trong chiều nắng hạ” hoặc “ngón tay em dài, ngón chân em nhỏ” trong thơ Nguyễn Lương Vỵ bao giờ. Tôi mừng lắm. Bởi thú thật, tôi ớn loại thơ đó đến tận óc. Mong nó sẽ mãi mãi nằm trên kệ sách bụi bám của các thư viện thị trấn miền xa.
 
Thơ Nguyễn Lương Vỵ không son phấn lụa là nhưng nhục cảm thì có.
 
Hai bài thơ thấm đẫm nhục cảm là bài “Đêm Tượng Trưng” và bài “Hà Hà Hà!”. Thấm đẫm nhục cảm nhưng cả hai đều kết bằng tiếng cười ha hả như khoái trá, như chọc ghẹo, như đùa cợt bông phèng. Tôi lấy làm lạ. Khi đụng chạm đến vấn đề thân xác nhục cảm, người ta thường hay “chất ngất cơn say” hoặc “đưa em lên đỉnh cuộc tình” chứ ai đời lại cất tiếng cười ha hả bao giờ. Tôi có cảm tưởng đây chỉ là sự châm biếm, tự biếm thì đúng hơn, nào đó của chính nhà thơ. Nhục cảm được thăng hoa bởi tiếng cười ha hả chăng? Nhục cảm ở chừng mực nào đó biến thành sự hài hước. Nhưng cái hài hước ở đây nhất định không phải là sự trào phúng hoặc mỉa mai cay độc. Ngược lại, nó chính là tinh thần tích cực yêu cái đẹp tự nhiên. Nó được thể hiện bằng tiếng cười khoái trá. Trong thơ Nguyễn Lương Vỵ, có nhiều tiếng cười khoái trá như thế lắm. Dịch xong một câu thơ cổ, “Mừng rơn hơn trúng số” (Hương cổ thi). Hoặc tự biếm “Mừng ta ngày càng khù!” (Không đề III). Tự biếm rồi cười khà khoái trá. Một thái độ khinh mạn ư? Nhưng nếu hiểu hài hước là cảm xúc chủ quan về tính mâu thuẫn (cái nghịch lý hết thuốc chữa) của đối tượng thì chúng ta nhận thức được thái độ hết sức nhân bản của nhà nghệ sĩ. “Je suis Charlie!”
 
Đọc thơ Nguyễn Lương Vỵ, bạn sẽ ít bắt gặp những thi ảnh cụ thể của thực tại. Không có những thao thức hay trăn trở (đôi khi rất sáo, giả tạo) của kiếp sống hay kiếp tha hương. Tôi không trách nhà thơ quay lưng với thực tại, bởi thực tại lắm khi chỉ là giấc mộng vô thường, đến rồi đi, tồn tại rồi tan biến, có rồi không, hoan lạc rồi đau khổ, nói chung là cái vòng luẩn quẩn vô thủy vô chung. Nó có gì đáng cho nhà thơ ca ngợi đâu. Hãy xem nó như cỏ rác, bụi bặm bám lên người trong những giây phút vô ý, sa đà, biếng nghĩ; hoặc nếu cần thì cứ đổ lỗi cho số kiếp, cho định mệnh tai ương hay quyền lực bạo tàn nào đó. Nó là phần dư thừa, những tế bào ung thư của đời sống.
 
Cái đáng ca ngợi trong thi ca chính là sự cô độc, sự hiu quạnh của kiếp người. “Đêm lạnh không tiếng dế, Chỉ có tiếng thạch sùng. Tiếng trời là tiếng gió, Cửa sổ khép hờ rung.” (Mấy bận thu phai). Hay “Người đi đâu lặng ngắt, Đời về đâu lặng thinh.” (Không đề V). Sự thinh lặng giúp nhà thơ chiêm nghiệm lẽ sống và những điều khác lạ mà có lẽ khó nhận thức nếu chung quanh là cảnh huyên náo của cuộc đời. “Khách lạ đứng nín thinh, Cúi nhặt vài âm lạ.” (Trưa ở chùa Linh Ứng).
Nguyễn Lương Vỵ bảo làm thơ tức là làm thinh. Câu “Mần thơ là mần thinh” (Tự hỏi tự đáp), như một lời tuyên ngôn cho việc làm thơ của mình, láy đi láy lại như một điệp khúc trong tập thơ. Nó đồng nghĩa với sự cô độc. Làm thơ là nói với chính mình, là độc thoại với khoảng không vô hạn trong lòng mình. Đúng ra, nghệ thuật nào cũng là sự đối diện của người nghệ sĩ với sự cô độc của chính mình. Chỉ sự cô độc mới cho người nghệ sĩ tìm ra cảm hứng sáng tạo, cho “Chữ reo xanh ý tứ, Sắc màu ứa vó câu.” (Không đề IX). Trăm năm trong cõi người ta là Trăm năm hiu quạnh. Hoặc như Octavio Paz, nhà thơ lớn nhất của nền thi ca Mexico thời hiện đại nhận định trong cuốn The Labyrinth of Solitude, “Sự hiu quạnh là cái gì sâu thẳm nhất của kiếp người. Con người là sinh vật duy nhất biết mình cô đơn.”
 
Tôi yêu thích những bài “Không Đề” trong tập thơ Năm Chữ Ngàn Câu này, nhất là bài Không Đề IV đề tặng nhà thơ Nguyễn Thị Khánh Minh. Nó gói ghém cái nhìn của nhà thơ về nhà thơ. Như trả lời câu hỏi, “Nhà thơ, mi là ai?” Có những câu khá cường điệu trong bài thơ như, “Đời thơ không lời đáp, Tự móc mắt moi tim.” Sự cường điệu có lẽ là cần thiết như một hình thức biểu đạt, nhưng tựu trung, nó vẫn khẳng định thi sĩ luôn luôn là kẻ cô đơn. “Đời thơ không quán xá, Chữ buốt giá tuỷ trời.”
 
Mô-típ huyết-âm, âm-huyết xuất hiện như nốt nhạc láy rền vang động trong thơ Nguyễn Lương Vỵ. Chúng hiện hữu như một ám ảnh khôn nguôi, quay về mãi, mỗi lần với một ý nghĩa khác nhau, và tất cả những ý nghĩa khác nhau đó tuôn chảy qua cụm từ như dòng nước tuôn chảy qua lòng sông. Tôi muốn gọi chúng là lòng sông của Heraclitus. (“Bạn không thể bước hai lần xuống cùng một dòng sông”). Tôi không rõ lắm hiệu ứng thi ca của các cụm từ đó khi xuất hiện trong những bài thơ mà đôi khi hiện ra như tiếng kêu tắc nghẹn, ngậm ngùi. Chỉ thấy bàng bạc một cảm xúc mơ hồ dấy lên trong tâm tưởng chảy qua dòng sông này có một dòng sông khác; dòng sông với ý nghĩa mới và những ý nghĩa cũ cộng hưởng, hòa nhập vào nhau. Cuộc nghiệm sinh mỗi lần vang lên là một lần hòa nhập vào nhau khiến bản hòa âm đời sống càng thêm phong phú.
 
Ít thấy những thi ảnh cụ thể trong thơ Nguyễn Lương Vỵ, và nếu có thì nó mang hơi hướm cổ điển như những câu sau trong bài Âm cuối thu, “Chiêm bao màu nắng lụa, Hửng sáng ửng một đoá. Cúc vàng đang ngậm sương, Tóc bạc vừa níu gió.” Cú điệu, nhạc tính trong thơ đều đều, êm nhẹ, đa phần là thuận âm, bởi hầu hết là thơ năm chữ niêm luật chỉn chu. Đọc tập thơ, thú thật có lúc tôi muốn tìm một nốt nhạc nghịch âm nào đó, và mặc dù trước khi gấp sách, tôi bắt gặp vài ba bài thơ xuôi và thơ tự do, nhưng nhạc tính của những bài thơ đó vẫn không thoát khỏi sự êm dịu cố hữu của thuận âm. Bạn cũng sẽ thất vọng nếu bạn tìm kiếm sự khai phá (hoặc đột phá, bứt phá, công phá, nếu muốn nói theo ngôn ngữ thời thượng) trong thơ Nguyễn Lương Vỵ. Không có những thử nghiệm mới lạ hoặc những hình thức làm dáng kiêu kỳ. Không có những kiểu vắt dòng ngược ngạo hay những ký hiệu gạch ngang gạch chéo ngớ ngẩn như thơ của nhiều nhà thơ ngày nay. Không có những thi ảnh trừu tượng, bí hiểm, làm dáng. Thơ Nguyễn Lương Vỵ chủ về ý nghĩa và nghệ thuật phối từ. Nhà thơ cẩn trọng với chữ nghĩa vốn là truyền thống của thi ca Việt Nam từ thời Trung đại. Đọc thơ Nguyễn Lương Vỵ, tôi ít bắt gặp những từ hào nhoáng, nuột nà. Thế nhưng, nhờ tài năng và một tâm hồn yêu thơ cao độ, Nguyễn Lương Vỵ đã khéo léo sắp đặt những từ tưởng là tầm thường như hòn sỏi bên cạnh nhau để biến chúng thành chuỗi ngọc sáng ngời.
 
Đọc xong tập thơ của Nguyễn Lương Vỵ, nếu có kẻ hỏi tôi đời buồn hay vui thì tôi sẽ trả lời kẻ ấy bằng câu thơ “Theo nắng sáng xuống phố!” rồi thản nhiên nhìn cái Being chảy trôi trước mắt.

.
GHI CHÚ:
​Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ sinh ngày 9/5/1952 tại Quán Rường, Tam Kỳ, Quảng Nam. Từ trần ngày 18/2/2021 tại Quận Cam, California. Nguyễn Lương Vỵ nổi tiếng trong giới văn học Miễn Nam VN từ 1969, khi còn là học sinh trung học. Ông sáng tác đa dạng, nổi bật với văn phong riêng biệt, xuất sắc trong cả thơ đời và thơ đạo.
.
Tác phẩm đã in của Nguyễn Lương Vỵ:
. Âm Vang Và Sắc Màu (NXB Trẻ, Sài Gòn, 1991);
. Phương Ý (NXB Thanh Niên, Sài Gòn, 2000);
. Hòa Âm Âm Âm Âm… (NXB Thư Ấn Quán, New Jersey, 2007);
. Huyết Âm (NXB Q&P Production, California, 2008);
. Tinh Âm (NXB Q&P Production, California, 2010);
. Bốn Câu Thất Huyền Âm (NXB Q&P, Production, California, 2011);
. Tám Câu Lục Huyền Âm (NXB Q&P Production, California, 2013);
. Năm Chữ Năm Câu (NXB Q&P Production, California, 01.2014);
. Năm Chữ Ngàn Câu (NXB Q&P Production, California, 12.2014);
. Tuyển Tập Thơ 45 Năm (1969 – 2014) (NXB Sống, Q&P Production, California, 2015).
. Tuyển Tập Thơ 50 Năm (1969-2019) (Văn Học Press, Q&P Production, California, 2020).
.
.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bắt đầu từ hôm nay, các doanh nghiệp, cơ quan chính phủ và các tổ chức khác ở Southland sẽ có thể ghi danh tham gia chương trình Charge Ready của Southern California Edison, là chương trình hạ tầng sạc xe điện chở khách lớn nhất trên toàn quốc được điều hành bởi công ty tiện ích điện do nhà đầu tư sở hữu.
Theo bản tin đăng trên trang mạng Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, Ngoại Trưởng Blinken đã tái cam kết sự ủng hộ của Hoa Kỳ với khối ASEAN, xây dựng mối quan hệ chiến lược dựa trên nhân quyền và các quyền tự do phổ quát, sự thịnh vượng kinh tế và dựa theo lợi ích người dân. Ông cũng cam kết là Hoa Kỳ sẽ tiếp tục giúp đỡ các quốc gia trong khu vực chống lại đại dịch Covid-19 qua các chương trình viện trợ của Mỹ.
Chưa có một thống kê, hay khảo sát ý kiến cộng đồng nào thực hiện chỉ riêng cho cộng đồng gốc Việt về vấn đề sở hữu súng. Nhưng qua trao đổi ý kiến cá nhân với nhiều người Việt sống tại các thành phố có cộng đồng gốc Việt lớn, đa số người Việt không ủng hộ việc sở hữu súng giết người hàng loạt.
Các đảng viên Đảng Dân Chủ đã bày tỏ ý kiến ​​khác nhau về kế hoạch chi tiêu 3,500 tỷ đô la được công bố vào đầu tuần này. Chủ tịch Ngân sách Thượng viện Bernie Sanders và Chủ tịch Hội nghị Cấp tiến Pramila Jayapal đều muốn một số tiền cao hơn dự luật chi tiêu sâu rộng. Các điều khoản đã tạo tiền đề cho Đảng Dân chủ thông qua các cuộc đại tu sâu rộng như mở rộng tín dụng hoàn thuế cho các gia đình có con nhỏ, mở rộng phúc lợi y tế và đưa ra các đề xuất mới về biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu là mục Thượng nghị sĩ Joe Manchin -người đứng đầu cuộc bỏ phiếu quan trọng nhất của Đảng Dân chủ - rất chống đối. Ông ta không thích việc nhu cầu về nhiên liệu hóa thạch có thể bị loại bỏ. Nhưng các biện pháp như vậy có thể sẽ cần thiết để có được sự ủng hộ của các đảng viên Đảng Dân chủ tiến bộ hơn.
Theo bản tin khác của CBS News hôm Thứ Tư, 14 tháng 7 năm 2021, hơn 16,000 lính cứu hỏa đang cố gắng kềm chế hơn 70 đám cháy rừng khắp Miền Tây, gồm đám cháy rừng Beckwourth Complex, mà đã thiêu rụi hơn 95,000 mẫu tây vào sáng Thứ Tư, theo Sở Lâm Nghiệp Hoa Kỳ cho hay.
Cựu Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush hôm Thứ Tư, 14 tháng 7 năm 2021, đã đưa ra lời chỉ trích mới nhất về việc rút quân đội Mỹ và NATO ra khỏi Afghanistan, khi chính phủ được Hoa Kỳ hậu thuẫn tại Kabul có vẻ ngày càng tê liệt và các tay súng Taliban tiếp tục nhanh chóng chiếm đất giành dân, theo báo Politico tường thuật hôm Thứ Tư. Được hỏi có phải việc rút quân là một sai lầm, Bush nói với đài truyền hình Đức Deutsche Welle trong một cuộc phỏng vấn: “Tôi nghĩ đúng vậy, vâng. Bởi vì tôi nghĩ các hậu quả sẽ là xấu và buồn không thể tin được.”
Lịch sử dường như đang tái diễn tại Afghanistan, sau 46 năm Miền Nam thất trận và Mỹ di tản hàng ngàn người Việt làm việc cho Mỹ tại VN ra đi vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975, qua việc chính phủ Biden hôm Thứ Tư, 14 tháng 7 năm 2021, nói rằng họ đã chuẩn bị để bắt đầu các chuyến bay di tản những thông dịch viên người Afghanistan là những người đã giúp nỗ lực quân sự Hoa Kỳ trong cuộc chiến gần 20 năm – nhưng những đích đến của họ vẫn chưa biết và có nhiều câu hỏi về cách bảo đảm sự an toàn của họ cho đến khi họ có thể lên máy bay, theo bản tin của AP tường thuật hôm Thứ Tư.
Nay thừa hành Hội Đồng Điều Hành Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu, Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội ra Thông Báo này, thành tâm kêu gọi sự ủng hộ tịnh tài từ các tự viện, tịnh thất, chư tôn đức Tăng Ni và quý đồng hương đồng bào Phật Tử, vì tình thương dân tộc đồng bào và lòng bi mẫn của người con Phật. Kính xin quý Ngài, quý vị góp phần trợ giúp, để Tổng Vụ Từ Thiện Xã Hội làm tròn trọng trách, đem lại phần nào an ủi với đồng bào tại quê hương đang rơi vào hoàn cảnh khốn khó hiện nay của Dịch Nhiễm Covid-19.
Tại 46 tiểu bang, số trường hợp lây nhiễm mới tuần vừa rồi ít nhất 10% cao hơn số trường hợp bị truyền nhiễm mới trong tuần trước đó, theo tài liệu của Đại Học Johns Hopkins cho biết. Tại 31 tiểu bang, số trường hợp mới trong tuần rồi ít nhất 50% cao hơn các trường hợp lây nhiễm mới một tuần trước đó. Chỉ có 2 tiểu bang – South Dakota và Iowa – chứng kiến sút giảm từ 10% tới 50%. Các trường hợp mới lây nhiễm tại Delaware và Arkansas tương tự tuần lễ trước đó.
Theo bản tin của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) hôm Thứ Tư cho biết tính đến ngày 14 tháng 7 năm 2021, Việt Nam đã có tổng cộng 37,434 người bị nhiễm Covid-19, trong đó 2,934 trường hợp ghi nhận trong ngày, nhiều nhất là ở Sài Gòn. Tổng số người chết từ Covid-19 tại Việt Nam tính đến nay là 135 người.
Thành phố Garden Grove hiện đang nhận đơn trực tuyến cho các vị trí cảnh sát tuyên thệ (sworn) và không tuyên thệ (non-sworn.) Hạn chót nộp đơn là Thứ Năm, 22 tháng Bảy, 2021.
Khi Tổng thống Mỹ Joe Biden và Tổng thống Nga Vladimir Putin tổ chức hội nghị thượng đỉnh đầu tiên tại Geneva vào tháng trước, vũ khí mạng đóng vai trò lớn hơn trong chương trình nghị sự so với loại vũ khí hạt nhân. Rõ ràng thế giới đã thay đổi kể từ Chiến tranh Lạnh, nhưng Biden đã hoàn thành điều gì, nếu có?
Các đảng viên Đảng Dân chủ tại Thượng viện đã đạt được thỏa thuận về một nghị quyết ngân sách trị giá 3,5 nghìn tỷ đô la bao gồm chi tiêu cho chương trình xã hội sâu rộng của Biden. Điều này khác với dự luật lưỡng đảng tập trung vào những đường sá và cầu cống. Thay vào đó, nghị quyết có thể dẫn đến việc các đảng viên Dân chủ thông qua các cải cách để mở rộng tín dụng thuế cho các gia đình có con nhỏ, cung cấp y tế và thời gian nghỉ phép cho gia đình, thay đổi mã số thuế và thậm chí có khả năng đại tu hệ thống nhập cư. Đó cũng là một phần trong nỗ lực lớn hơn của Đảng Dân chủ để cuối cùng thông qua dự luật cơ sở hạ tầng của riêng họ bao gồm nhiều mục hơn phiên bản lưỡng đảng. Mức giá 3,5 nghìn tỷ đô la có thể khiến một số người ủng hộ sợ hãi, vì vậy giải pháp này giúp họ có cách để thực hiện.
Hoa Kỳ đang rút quân khỏi Afghanistan, dự định sẽ đưa hết binh lính ra khỏi vùng đất này vào cuối tháng Tám, sau 20 năm can thiệp quân sự và giúp xây dựng quốc gia. Quan ngại là quân Taliban chống đối chính phủ đang chiếm đất giành dân tại nhiều nơi và đã kiểm soát được nhiều quận. Hình ảnh sụp đổ của Việt Nam Cộng hoà năm 1975 đang được nhiều giới chức và truyền thông Mỹ nhắc lại và đặt câu hỏi là chuyện gì sẽ xảy ra nếu Taliban chiếm được Thủ đô Kabul.
Trước mặt tôi là Kelly Quỳnh Thư Phạm, một cô bé sắp tròn 18 tuổi, con gái út của một gia đình có hai người chị gái lớn hơn cô nhiều tuổi. Chị hai là Kathleen Phương Thư, lớn hơn cô những 11 tuổi và chị ba là Karen Vân Thư lớn hơn 5 tuổi. Khi Kelly bước vào lớp 1 thì chị hai Kathleen chuẩn bị bước vào trường đại học để giật lấy bằng cử nhân trước khi trở thành nữ sinh viên trường đại học y khoa ở tiểu bang Missouri. Khi cô bé chuẩn bị vào trường trung học cơ sở thì chị ba Karen bước vào con đường nỗ lực học tập để trở thành chuyên viên nghiên cứu về khoa học địa chất ở Na Uy.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.