Hôm nay,  

Thầy Thích Minh Châu: Bất Lập Văn Tự

12/03/202208:16:00(Xem: 6696)
blank
 

Thầy Thích Minh Châu: Bất Lập Văn Tự

 

Nguyên Giác

  

Bài viết này để ghi ơn Thầy Thích Minh Châu. Những gì Thầy dịch nhiều hơn những gì tôi có thể đọc, những gì Thầy viết phức tạp hơn những gì tôi có thể hiểu, và công trình hoằng pháp của Thầy vĩ đại hơn những gì tôi có thể đo lường. Bài viết, do vậy, chỉ là một phần những gì có thể nhìn về Thầy Thích Minh Châu, từ một người, tuy chưa bao giờ gặp Thầy trực tiếp, nhưng luôn luôn tự xem như học trò của Thầy. Và nơi đây sẽ tập trung về cách Thầy Thích Minh Châu lý giải về cửa pháp Bất Lập Văn Tự (không dựng lập chữ nghĩa, ngôn ngữ, biểu tượng, ký hiệu…).  Sai sót tất nhiên sẽ có, người viết xin được thành tâm sám hối.

.

Thiền sư và Pháp sư

Thầy Thích Minh Châu đã dịch Tạng Nikaya, tất nhiên được gọi là dịch giả, học giả; Thầy uyên bác như thế đương nhiên được người trong nhà Phật gọi là Pháp sư. Có thể Thầy cũng là Thiền sư? Hình như chưa nghe ai nói về Thầy Thích Minh Châu như là một Thiền sư. Nhiều người có thể thắc mắc và khởi tâm phân biệt. Xin mời đọc kỹ những gì Thầy Thích Minh Châu viết, để chúng ta có thể tin rằng Thầy đã vượt qua các lằn ranh phân loại như thế.
 

Trong rất nhiều Kinh Phật, có nhiều vị chỉ nghe Đức Phật dạy một câu, hay dạy một bài kệ bốn câu, hay dạy một bài kinh vài đoạn, là đủ để giải thoát. Đối với những vị như thế, vừa nghe Đức Phật dạy xong là tức khắc, hay chỉ mất thời gian rất ngắn, là xa lìa ngay được tham sân si. Thiền sư còn nương tựa vào cây gậy Thiền để đi đường, Pháp sư còn nương tựa vào cây gậy Pháp mà đi. Tuy nhiên, tôi tin rằng, những người như Thầy Thích Minh Châu, đã ngồi dịch Kinh miệt mài nhiều thập niên, chính ngay khi đó cũng có thể là Giới, cũng có thể là Định, và cũng có thể là Huệ. Hiển nhiên, Thầy đã trải qua rất nhiều thời gian tu, học, viết, dịch và giảng Kinh Phật, tham sân si có thể đã biến mất trong tâm Thầy.
 

Trong Kinh AN 5.26, Đức Phật nói người sống không phóng dật và nhiệt tâm có thể đi đến đoạn diệt hoàn toàn qua một trong năm giải thoát xứ: (a) nghe pháp, (b) thuyết pháp, (c) tụng đọc pháp, (d) tư duy và khảo sát về pháp (bản dịch Bodhi:  ponders, examines, and mentally inspects the Dhamma), (e) khéo nắm giữ một định tướng, khéo tác ý, khéo thọ trì, khéo thông đạt với trí tuệ (has grasped well a certain object of concentration, attended to it well, sustained it well, and penetrated it well with wisdom). (1)
 

Như thế, ngồi dịch Kinh nhiều thập niên như Thầy, là dễ dàng đi qua bốn cửa giải thoát đầu trong Kinh trên, vì dịch Kinh là nghe pháp, là thuyết pháp, là tụng đọc pháp, là tư duy và khảo sát về pháp. Khi Thầy đã qua được bốn cửa giải thoát nêu trên, là đã lìa khỏi các phân loại của chúng sinh. Thì, có gọi Thầy bằng chữ nào cũng không thích nghi.
 

Có một Kinh khác cũng có thể cho chúng ta tin rằng Thầy Thích Minh Châu đã vượt qua kiểu phân loại của thế gian hữu vi. Đó là Kinh AN 6.46, trích như sau:

Do vậy, này chư Hiền, cần phải học tập như sau: “Chúng ta là những người chuyên tâm về Pháp, chúng ta sẽ tán thán các Tỷ-kheo tu Thiền “. Này chư Hiền, chư Hiền cần phải học tập như vậy. Vì cớ sao? Thật vậy, này chư Hiền, các người vi diệu ấy khó tìm được ở đời, những người cảm giác bất tử giới với thân và an trú.

Do vậy, này chư Hiền, cần phải học tập như sau: “Chúng ta là những người tu thiền, chúng ta sẽ tán thán các Tỷ-kheo chuyên tâm về Pháp”. Này chư Hiền, chư Hiền cần phải học tập như vậy. Vì cớ sao? Thật vậy, này chư Hiền, các người vi diệu ấy khó tìm được ở đời, những người với trí tuệ thể nhập và thấy con đường thâm sâu hướng dẫn đến đích.” (2)
 

Nghĩa là, tôi suy đoán rằng, Thầy Thích Minh Châu đã vượt qua các lằn ranh: cả Thiền và Pháp đều hiển lộ trong tâm Thầy.

.

Đại Thừa, Tiểu Thừa, Nhất Thừa…

Một số người thường nói rằng Thầy Thích Minh Châu đã phủ nhận tư tưởng Đại Thừa, xem như của các vị sư Trung Hoa hậu tác. Thực sự không phải. Thầy chỉ phân tích và gạn lọc. Thầy có thể phủ nhận một phần, nhưng rồi chúng ta sẽ thấy Thầy từng trích dẫn rất nhiều Kinh Bắc Tông. Riêng trong một tác phẩm do Thầy dịch, Thầy đã cho thấy toàn cảnh về Phật Giáo nhiều truyền thống, và điều này rất lợi ích cho người học Phật chân chính, để biết nơi nào thiếu sót và nơi nào dư thừa do lỗi người đời sau. Hãy luôn luôn nhớ rằng, chúng ta đã là học trò Đức Phật, điều cốt tủy là phải can đảm tự xét về chính mình, can đảm suy nghĩ về những gì mình cần đọc nhưng chưa đọc tới, về những gì mình cần học nhưng chưa học tới, và về những gì mình đã đọc và học nhưng thực ra là xen tạp vô ích. Và tận cùng, chúng ta phải nhìn vào tự tâm để đối chiếu Kinh Phật hiển lộ trong tâm mình.
 

Thầy Thích Minh Châu đã dịch một sách biên khảo nhan đề “Đại Thừa và Sự Liên Hệ với Tiểu Thừa” của học giả Nalinaksha Dutt, phát hành với ấn bản 1999 của nxb TPHCM, trong Lời Dịch Giả, trích lời Thầy viết như sau:
 

“…Cho nên quan điểm của một số học giả Pàli cho rằng những gì ngoài ba Tạng Pàli là ngụy tạo, vừa nguy hiểm, vừa nông nổi nếu không phải là lạc hậu. Nguy hiểm vì tự mình phủ nhận những cố gắng trung thành với đạo Phật nguyên thủy của các nhà luận sư, như chúng ta đã thấy quá rõ ràng trong tập sách này. Nguy hiểm hơn nữa là chúng ta phủ nhận luôn những tinh hoa đạo Phật nguyên thủy do chính các nhà luận sư khai thác và diễn đạt. Nông nổi và lạc hậu, vì ngày nay các nhà học giả Phật giáo phần lớn đều chấp nhận một số tư tưởng Đại thừa là những tư tưởng của đạo Phật nguyên thủy và xác nhận chính trong tam tạng Pàli, được kiết tập trong một thời gian một vài thế kỷ, lẽ dĩ nhiên phải có những đoạn phi nguyên thủy xen kẽ vào. Nếu có nhà học giả nào chịu khó so sánh bốn tập A Hàm (Trung Hoa) với các tập Pàli Nikàya tương đương, các vị ấy sẽ thấy có nhiều đoạn văn A Hàm Trung Hoa lại nguyên thủy hơn các đoạn văn Pàli.

Thái độ của một số Phật tử Đại thừa ngược lại xem những gì Tiểu thừa là thiển cận, nhỏ hẹp, không đáng học hỏi cũng là một thái độ nguy hiểm, nông nổi, nếu không phải là ngây thơ, phản trí thức. Nguy hiểm vì tự nhiên phủ nhận ba tạng Pàli, bốn bộ A Hàm và các luật tạng, những tinh hoa tốt đẹp nhất và nguyên thủy nhất của lời Phật dạy. Và làm vậy chúng ta mắc mưu các nhà Bà-la-môn giáo đã khôn khéo loại bỏ ra ngoài Phật giáo những tinh ba của lời Phật dạy, bằng cách gán cho danh từ "Tiểu thừa". Nông nổi và ngây thơ, vì thật sự danh từ Tiểu thừa và Đại thừa không được tìm trong ba tạng Pàli và bốn bộ A Hàm và chỉ là những danh từ được tạo ra về sau. Hơn nữa, tìm hiểu quá trình lịch sử tư tưởng Phật giáo, chúng ta chỉ có thể hiểu được tư tưởng Đại thừa sau khi chúng ta tìm hiểu được tư tưởng nguyên thủy. Loại bỏ tư tưởng nguyên thủy để tìm hiểu tư tưởng Đại thừa cũng như thả mồi bắt bóng, và bắt bóng ở đây là bắt bóng tà ma ngoại đạo, mới thật sự nguy hiểm hơn. Các nhà gọi là Đại thừa cần phải xác nhận một sự thật lịch sử, là các nước Tiểu thừa chống giữ sự xâm nhập của ngoại đạo tà giáo kiên trì và hữu hiệu hơn các nước Đại thừa. Lý do chính là tư tưởng Đại thừa và tà giáo ngoại đạo nhiều khi cách xa chỉ có gang tấc, và nhiều nhà tự cho là Đại thừa lại sẵn sàng bước qua biên giới ấy…” (3)

.

Một điểm đặc biệt của sách vừa dẫn, là phần Phụ Lục, chương này có nhan đề “Vấn đề các tập Prajnàpàramità (Bát nhã Ba-la-mật)”.  Chương Phụ Lục nơi đoạn kết ghi về cách nhìn của Bát nhã Ba-la-mật, rất đúng với cái nhìn của Thầy Long Thọ, người mở đường cho lý luận của hệ Bát Nhã và cũng là người khai sáng tư tưởng Đại Thừa, đồng thời cũng rất phù hợp với tinh thần của các nhóm Kinh Nhật Tụng Sơ Thời (trong Kinh Tập, Tiểu Bộ), nghĩa là các Kinh mà trong các năm đầu hoằng pháp Đức Phật đã yêu cầu tứ chúng tụng đọc hàng ngày.
 

Trích nơi đoạn cuối Phụ Lục - Vấn đề các tập Prajnàpàramità (Bát nhã Ba-la-mật) là những dòng chữ như sau:

Tóm lại, tác dụng của Bát nhã Ba-la-mật là làm cho vị Bồ-tát tin rằng bố thí Ba-la-mật hay bất cứ pháp nào đều không có hình tướng, không có căn nguyên, và không sai khác với Sùnyatà, Bát nhã Ba-la-mật dùng như một vệ sĩ cho vị Bồ-tát, đã vượt trên các hạng người tầm thường, đã chứng nhiều đức tánh tốt đẹp, nhưng có thể vẫn còn chấp thủ một vài quan điểm có thể là cao thượng, trong sạch, nhưng vẫn trở thành một đối tượng chấp thủ cần phải trừ diệt. Vì lý do này mà Bát nhã Ba-la-mật được tán thán hơn các pháp Ba-la-mật hay các đức tánh khác và được xem như là lãnh đạo (nàyikhà, phùrvan gamà) cho tất cả pháp Ba-la-mật.” (3)
 

Đó là Bát Nhã Tâm Kinh, là Trung Luận. Đọc kỹ Bát Nhã Tâm Kinh sẽ thấy, tinh thần vượt qua cả chấp thủ cả Có và Không, cả bờ này và bờ kia, đó chính là lời Đức Phật dạy, rằng trong cái nhìn Đại Thừa (hiểu là cửa lớn dung thông) sẽ thấy rằng phiền não tức là Niết Bàn, rằng mắt tai mũi lưỡi thân ý là hang tối vô minh vây hãm chúng sinh, nhưng đồng thời cũng chính mắt tai mũi lưỡi thân ý là tia sao mai buổi sớm chỉ ra cái nhìn giải thoát. Không phải vô ý mà tác giả Nalinaksha Dutt đưa bài nhận định Bát nhã Ba-la-mật về chương Phụ Lục để kết thúc cuốn sách, và hiển nhiên có thể tin rằng dịch giả Thích Minh Châu cũng nhận ra như thế, nơi đó các thừa không còn vương bận nữa; nói như Thiền Tông là khi “Trâu bùn qua sông” thì đó là giải thoát, nơi bờ này với bờ kia chỉ còn là giấc mộng đêm qua, và không còn gì để gọi là buộc hay để gỡ. Nếu dùng lời để nói, có thể nên gọi Thầy Thích Minh Châu là bậc Đại Sa Môn Nhất Thừa.

.

Trước Sự Nô Lệ Của Con Người

Một tác phẩm tuyệt vời của Thầy Thích Minh Châu cần được đời sau đọc kỹ, và nên đọc rất kỹ, đó là cuốn “Trước Sự Nô Lệ của Con Người: Con Đường Thử Thách của Văn Hóa Việt Nam.” (4)
 

Sách này, nơi đây, chúng ta sẽ thảo luận về bản in lần thứ hai, năm 1970, ấn hành bởi Nha Tu Thư & Sưu Khảo Viện Đại Học Vạn Hạnh. Có lẽ, Thầy Thích Minh Châu viết sách này, trong cương vị Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh, có thể viết năm 1968 vì Chương 3 là bài diễn văn Thầy Minh Châu đọc khi khởi đầu niên học 1968-1969: "Với trọn lòng tôn kính và nhiệt hứng, với trọn lòng tin sắt đá vào sự phục hồi sinh lực của tinh thần Việt Nam, chúng tôi xin chính thức tuyên bố buổi Tổng Khai Giảng hôm nay, mở đầu niềm hy vọng liên tục trong niên học 1968-1969 tại Viện Đại Học Vạn Hạnh."
 

Trong sách này, Thầy Minh Châu đã viết và lý luận gần như là thuần tư tưởng Bắc Tông. Chúng ta không hề ngạc nhiên khi đọc và thấy các vị Thầy khác trích dẫn Kinh Bắc Tông – thí dụ, Thầy Thanh Từ, Thầy Tuệ Sỹ… -- bởi vì đó là những gì các Thầy này đọc hàng ngày, dịch hàng ngày, tư duy và tu dưỡng hàng ngày. Tuy nhiên, Thầy Thích Minh Châu nhiều lần trích dẫn Kinh Bắc Tông mới là lạ. Rất kỳ lạ, vì trong sách này, Thầy Minh Châu cũng trích nhiều lần về Thiền Tông, y hệt như Thầy Minh Châu mới dùng thần thông để đi du học ngược thời gian, như từ thời Lý, Trần về.
 

Có phải vì “gỡ bỏ nô lệ” cần riêng tới Kinh Đại Thừa? Không phải, vì Phật Giáo Nam Tông và Bắc Tông đều nhằm gỡ bỏ xiềng xích nô lệ trong nhân loại nói chung, và trong tâm từng người nói riêng.
 

Tại sao Thầy Minh Châu đã du học Ấn Độ, hoàn tất Tiến sĩ Phật học với luận án "So sánh Tạng Pàli Trung Bộ Kinh với Tạng Hán A Hàm" (The Chinese Madhyama Agama and the Pàli Majjhima Nikàya – A Comparative Study) tại Đại học Phật giáo Nalanda (Ấn Độ) lại ưa thích trích dẫn Kinh Kim Cương, Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Già, Tư tưởng Bất Nhị, Tư tưởng Bát Nhã, Tư tưởng Phật Tính, Bồ Tát Hóa Thân, Đức Di Lặc, Lục Tổ Huệ Năng, Tam Tổ Tăng Xán, Ngài Long Thọ…
 

Và rồi tận cùng Thầy Thích Minh Châu đã viết với văn phong Lâm Tế rằng, “Phật giáo chỉ là Phật giáo khi Phật giáo  vượt qua chính cơ cấu ngôn ngữ và biểu tượng của Phật giáo…” Nghĩa là, Thầy Thích Minh Châu đang lặng lẽ truyền pháp của Thiền Tông: bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền…

Nơi đây, chúng ta sẽ trích từ sách “Trước Sự Nô Lệ của Con Người: Con Đường Thử Thách của Văn Hóa Việt Nam” một số nơi đáng chú ý, khi Thầy dẫn ra Kinh điển Bắc Tông, và tư tưởng Thiền Tông.

.

Chương 1: Hãy nhìn thẳng vào chính mình

(Bắt đầu trích) "Vô uý là một trong những đức tính quan trọng mà đấng Thế Tôn đã dạy cho chúng ta. Đó là con đường của tất cả Bồ Tát. Hoá Thân của Đức Di Lặc sẽ mang đủ đức tính của Bất Không Thành Tựu Như Lai. Đó chính là tư thái thản nhiên của Ngài được thể hiện trong Vô Uý Ấn (abhaya mudrà)... [...]
 

Điều trên khiến chúng ta nhớ đến bình đẳng tánh trí và diệu quan sát trí hai trong bốn trí của Duy Thức Học.

Bình đẳng tánh trí (Samatājnāna) và Diệu Quan sát trí (Pratyaveksanājňāna) đưa đến Đại viên cảnh trí (Àdarsanajňāna), cứu cánh của giải thoát; đó mới chính là con đường giải thoát duy  nhất cho mỗi người trong chúng ta.

Tâm hồn thản nhiên trước sự vật và tâm trí mở ra trước huyền diệu, đó là đường đi của tất cả Bồ Tát, thể hiện cô đọng trong Vô Uý An (Abhaya mudrà) của Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi), hoá thân của Đức Di Lặc." (ngưng trích Chương 1)

.

Chương 5: Hoà bình với sự sụp đổ của ngôn ngữ

(Bắt đầu trích)  “Khi đức Phật mở ra con đường giải thoát bằng việc phá chấp, phá bỏ tất cả mọi cố chấp và phá bỏ ngay việc cố chấp vào chính đạo phật, Đức Phật chỉ muốn cho con người ý thức tính cách giới hạn của biểu tượng và đồng thời ý thức tối hậu rằng chính Thực tại và Thực thể cũng là biểu tượng cuối cùng mà con người phải phá hủy, để được giải phóng toàn triệt. Đó cũng là ý nghĩa cách mạng triệt để của Lục tổ Huệ Năng khi Ngài nói: "Bản lai vô nhất vật", nói khác đi thì cũng có nghĩa là chính Thực tại chỉ là biểu tượng và biểu tượng này cũng phải vứt vỏ đi để không còn một vật nào hay một nơi nào hay một nơi nào mà con người có thể cố chấp trói buộc dù là Thực tối hậu hay biểu tượng tối hậu.[...]

Hiểu hòa bình theo nghĩa chống lại chiến tranh là còn hiểu theo bình diện tầm thường, như thể bị trói buộc trong hướng đi biện chứng pháp (processusdialectique) của chính ngôn ngữ, nói theo danh từ nhà Phật thì có nghĩa là còn phân biệt đối đãi giữa thực tế này với thực thể khác, chưa đạt đến "vô Phân biệt trí"; trong ý nghĩa ấy, Tổ Tăng Xán của Thiền Tông đã nói một câu ý nghĩa:"Chỉ động quy chỉ, chỉ cánh quy động" (ngăn động mà cần tịnh, hết ngăn lại động thêm), khi chiến tranh thì ta cầu hòa bình, nhưng hết chiến tranh thì lại chỉ là sống để chờ một trận chiến tranh khác dữ dội, do đó, hòa bình chỉ là hòa bình giai đoạn, có tính cách nhất thời.

Khi chúng tôi nói đến hòa bình, chúng tôi chỉ nói hòa bình toàn thể, hòa bình tâm linh, chỉ có hòa bình tâm linh mới là hòa bình duy nhất làm nền tảng cho tất cả hòa bình chính trị và quân sự.” (ngưng trích Chương 5)

.

Chương 6: Ngay giữa lòng thế gian đau khổ

(Bắt đầu trích) “Trong Kinh Pháp Hoa, Phật dạy: tất cả các Đức Phật đều vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời; đại sự nhân duyên ấy, chính là mở bày cho chúng sinh tri kiến của Phật chỉ cho chúng sinh tri kiến của Phật, làm cho chúng sinh hiểu tri kiến Phật, khiến chúng sinh chứng nhập tri kiến của Phật… […]

 Trong Kinh Pháp Hoa phẩm "Như Lai thọ lượng" Phật lấy ví dụ một vị lương y vì đàn con ngộ độc nên chế sẵn món thuốc giải độc cho các con uống. Nhưng những người con mãi mê vui chơi không chịu uống, độc dược ngày một ngấm sâu vào cơ thể, người cha lương y bèn dùng phương tiện bỏ nhà ra đi phương xa rồi cho người về báo tin là mình đã chết. Đàn con khi ấy thương tiếc cha mới bắt đầu nhớ lời cha dặn và uống thuốc, nhờ đấy khỏi được bệnh. Đức Phật cũng thế, vốn là đấng Vô Thỉ, vô chung thọ mạng vô cùng, thường trụ bất diệt, là đấng toàn trí vượt trên sự tu học, nhưng vì chúng sinh mà thị hiện ra đời; thị hiện sáu năm khổ hạnh, thị hiện thành đạo, thị hiện nhập diệt. Vì sao? vì nếu chúng sinh thấy Như Lai thường còn chẳng mất thì dễ sanh lòng buông lung nhàm trễ, không sanh tâm tưởng nghĩ Đức Phật khó gặp. Do đó mà Như Lai đã dùng phương tiện nói rằng: “Các Tỳ Kheo nên biết, chư Phật ra đời khó có thể gặp được." (Pháp Hoa Kinh, Như Lai thọ lượng phẩm). Lại nữa pháp thân Phật to lớn bao trùm cả pháp giới; mà nay nhập thể trong một thân bé nhỏ,hữu hạn chịu những ràng buộc hữu vi: sinh, già, bệnh, chết của con người cũng chỉ vì một ý hướng nhân bản nêu trên… […]

Chính Đức Phật đã dạy trong Kinh Kim Cương:

Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.

Kinh Pháp Hoa có lấy dụ một thương nhân mang món báu lớn đi qua đường hiểm (tê trì trọng bảo quá hiểm lộ), chính là hoàn cảnh chúng ta hôm nay, mang kho tàng pháp bảo vô giá đi vào một giai đoạn cam go của thời mạt thế. Đức Phật đã cứu chúng ta, bây giờ đến lượt chúng ta hãy cứu lấy đức phật. (ngưng trích Chương 6)

.

Chương 9: Nền tảng của mọi khoa học và triết học nhân loại

(Bắt đầu trích) “Tất cả những chủ đề này đều nêu ra một thuộc tính trong những thuộc tính của Phật tính. Thực ra, đứng trên bình diện Chân Như quan thì Phật tính là Phật tính, tức là Như tính, gọi là Như Như mà chữ phạn gọi là Tathàtva hay tathatà; đứng trên quan điểm dựa trên chân lý như thật ấy (yathàbhù tàrthasthànadar-sana) thì Phật tính không có thuộc tính gì cả, bởi vì thuộc tính chỉ có lý do tồn tại trong hiện tượng giới… […]

Thấy được sự thật là hiểu biết Như thật (Yathà-bhùtam); hiểu biết như thật (Yathà-bhùtam) là hiểu biết đúng y như thực tại (Yathàtattvam) đúng theo sự kiện thiết thực (yathàrtha) nghĩa là nhận thức chân tướng của mọi sự vật. Vì lẽ đó, đạo Phật còn có tên là "đạo như thật" "yathàbhùtammarga" (kinh Bát Nhã, trang 15).” (ngưng trích Chương 9)

.

Chương 10: Nền tảng của mọi phương pháp giáo dục

(Bắt đầu trích) “Vô minh là nền móng của tà kiến, và vì tà kiến, do tà kiến, bởi tà kiến, nên con người mới nô lệ vào những ảo ảnh nguy hiểm để giết hại lẫn nhau. Chánh kiến đi đôi với Đạo đức; chuyển tà kiến thành chánh kiến thì chuyển được Ác thành Thiện. Nhà giáo dục Phật giáo không phải chỉ là người cố chấp vào một nguyên tắc đạo đức để mà bỏ quên thực chất linh động của đạo đức; chính kiến mới là không chấp trước vào vọng kiến; vọng kiến là sự chìm đắm trong những ảo ảnh, hư ảnh phù phiếm mà chạy trốn thực tại. Thực tại nằm trên Thiện và Ác; giai đoạn đầu là theo Thiện bỏ Ác, giai đoạn thứ hai là bỏ Ác theo Thiện, giai đoạn thứ ba là siêu hóa nhị tướng của vạn pháp để mà thể nhập Thực tại siêu việt… […]

Tinh thần vô chấp, vô trước, phải được thực hiện triệt để trong nền giáo dục Phật giáo; con người của chân lý là kẻ sống với chân lý mà không chấp trước và chân lý. Giáo dục phật giáo là giáo dục con người trở thành Phật tử để rồi không chấp trước vào bản vị Phật tử và trở về lại với con người, con người trọn vẹn, không phân biệt tôn giáo, nòi giống, giai cấp, Phật tử chỉ là Phật tử thực sự khi Phật tử vượt lên giới hạn của mình để nhập một với con người bằng xương bằng thịt ở khắp mọi chân trời. Chân lý bất nhị (Advaya) là nền tảng của tất cả mọi đường hướng giáo dục Phật giáo. Chân lý (satyatà) chính là bất nhị (advaya), con đường của sự thật(màrgasat), như Đức Phật đã dạy trong Kinh Lăng Già (Lankàvatàrausutra). Bất nhị là không phân biệt Phật giáo với những gì không phải là Phật giáo; Bất nhị là không phân biệt trí và Đức, Thiện và Ác, vô vi và hữu vi, tự thể và tha thể, bạn và thù, quốc gia và quốc tế.” (ngưng trích Chương 10)

.

Chương 11: Nền tảng của sự trùng phùng giữa văn hoá Đông phương và Tây phương

(Bắt đầu trích) “Chúng ta chỉ phân biệt Đông phương và Tây phương khi chúng ta đã đánh mất sự hòa điệu. Sự hòa điệu chỉ nằm tại nguồn; nơi suối nguồn, Đông phương và Tây phương không còn khác nhau, cả hai chỉ là một. Và con đường hướng về Suối nguồn duy nhất này chính là con đường "antadvayasunya" của Prajnà, mà Prajnà, chính là sự im lặng toàn triệt của tất cả mọi câu hỏi, vì tất cả câu hỏi đều bị quy định trong cơ cấu của ngôn ngữ, mà cơ cấu của mọi ngôn ngữ đều bị quy hướng trong con đường nhị phân hoặc đa phân. Trong tư tưởng Phật giáo của Nàgàr-juna thì Prajnà chính là Sunyatà mà Sun-yatà có nghĩa là "phi nhị tướng, ly lưỡng biên" tức là "không tướng" (laksanasu-nyatà) hoặc "không tự tướng"(svalaksan-astunyatà)

Chúng tôi muốn kết luận bằng một câu kệ của Long Thọ (Nàgarjuna) trong Màbhyamika-kàrikàs (Bid.Budd.IV):

Tất cả đều hòa điệu đối với kẻ nào hòa điệu với Không Tính.
Tất cả bấy hòa điệu đối với Kẻ nào không hòa điệu với Không Tính.” (ngưng trích Chương 11)

.

Và bây giờ, chúng ta sẽ vô cùng kinh ngạc, khi đọc tới chỗ Thầy Minh Châu viết về tư tưởng Bất Lập Văn Tự --- của Thiền Tông, và cũng là cốt tủy của Phật Giáo. Nơi đây, chúng ta trích như sau, từ Chương 4.

.

Chương 4: Vượt ra ngoài biểu tượng và ngôn ngữ

(Bắt đầu trích) “Đối với đạo Phật, con đường dẫn đến Niết bàn phải là công bình, đặt trọng tâm vào tự nguyện và sự tùy thuận của từng cá nhân không bao giờ dùng áp lực mà bắt buộc (như đại ý của Kinh Kuladanta), nhưng công bình chỉ là ý niệm, bước đầu trong đời sống tâm linh, khi đời sống tâm linh mình trở nên sâu sắc và đã giải thoát  rồi thì công bình tự nhiên xuất phát từ nhất cử nhất động của mình, công bình lúc ấy hòa nhập với trí tuệ và đối với Phật giáo, công bình  không phải xuất hiện giữa hai thực thể (chủ thể và khách thể) mà công bình phải bắt đầu ngay trung tâm điểm; trung tâm điểm ấy tức là tâm thức con người: do đó, phải cách mạng nơi tâm thức con người thì mới có thể đem đến công bình thực sự cho thế giới. Cuộc cách mạng tâm thức chỉ có thể thực hiện, khi mỗi người trong chúng ta không còn ôm giữ lấy cơ cấu ngôn ngữ và biểu tượng của tôn giáo mình và ý thức rằng Thực tại chỉ có thể thực hiện bên trong tự thể của mình thôi (Pali gọi là paccattam ve-ditabbo vinnuhi= Pratyatmyavedya). Trong quan niệm của Phật giáo, Phật giáo chỉ là Phật giáo khi Phật giáo  vượt qua chính cơ cấu ngôn ngữ và biểu tượng của Phật giáo, vì thực tại không thể nào xác định được bằng bất cứ ngôn ngữ hay biểu tượng nào (avyà krta). Niết bàn là chấm dứt tất cả mọi vọng tưởng (vikalpa), tức là phá bỏ vô minh (avidyà), phá bỏ chấp trước đeo níu (rà-ga) ác ý (dvesa) và ảo tưởng (moha). Giới (sila) Định (sammàdhi) và Tuệ (Pra-jna) là công bình trong đức hạnh, công bình trong tâm thức và công bình trong trí huệ: Niết Bàn là sự toàn thiện của Giới, Định, Tuệ.

Chỉ khi nào chúng ta không còn nô lệ vào ngôn ngữ và biểu tượng, chúng ta mới đạt được sự công bình trong Trí Huệ, công bình trong Trí cũng chính là trí huệ công bình, tức là trí huệ bình đẳng; chữ nhà Phật gọi đó là bình đẳng tánh trí; đó là trí huệ của một người vượt ra ngoài mọi quan niệm, mọi cơ cấu biểu tượng và ngôn ngữ (nivikalpajnana).

Chỉ khi nào chúng ta quan niệm nền tảng của tôn giáo như là (nivikalpajnana) nghĩa là "tri kiến thuần túy vượt ra ngoài mọi cơ cấu ngôn ngữ ý niệm" thì chúng ta mới có thể đối xử mọi tôn giáo một cách công bình và từ sự công bình của nền tảng tôn giáo, chúng ta mới có thể xây dựng công bình thế giới.” (ngưng trích Chương 4)

.

Ý chỉ Bất Lập Văn Tự

Chúng ta thử phân tích vài khái niệm trong Chương 4 vừa dẫn.

Trước tiên, là chữ “biểu tượng” – tức là, sử dụng một ký hiệu, hay một hình ảnh, hay một ký tự, hay một chữ, hay bất kỳ một cái gì để chỉ về một cái gì khác được cho là rất khó mô tả. Trong Thiền Tông, hình ảnh thường gặp nhất là dùng “ngón tay” để “chỉ trăng.” Ngón tay là biểu tượng, cần ngó theo ngón tay (dựa vào biểu tượng) mới thấy mặt trăng (thực tướng muốn thấy). Ngón tay không phải mặt trăng, biểu tượng không phải thực tướng.

Tương tự, “ngôn ngữ” chính là một hệ thống biểu tượng của một dân tộc. Thực tại chỉ có một, trong khi lại có nhiều ngôn ngữ khác nhau của nhiều dân tộc khác nhau chỉ để nói về một thực tại ở cõi này. Không có ngôn ngữ để dùng như biểu tượng, sẽ không truyền thông được, và cũng không chỉ ra được điều muốn nói hay nơi muốn tìm.
 

Kinh Viên Giác viết rằng: "Tu-đa-la giáo như tiêu nguyệt chỉ. Nhược phục kiến nguyệt, liễu tri sở tiêu, tất cánh phi nguyệt. Nhất thiết Như Lai chủng chủng ngôn thuyết khai thị Bồ-tát diệc phục như thị."

Bản dịch của Thầy Thanh Tử là: "Kinh giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng thì biết rõ ngón tay rốt ráo không phải là mặt trăng. Tất cả ngôn giáo của Như Lai khai thị cho Bồ-tát cũng như thế."
 

Bởi vậy, Thiền Tông đã ghi lại huyền thoại Đức Phật cầm đóa hoa lên lặng lẽ trước đại chúng; lúc đó, chỉ có ngài Ca Diếp ngộ được ý chỉ, mỉm cười. Sự tích “Niêm hoa vi tiếu” này là vượt ra ngoài ngôn ngữ. Thực tướng nào được Đức Phật hiển lộ nơi đây? Đơn giản, ngài Ca Diếp nhận ra ngay đây là cái được thấy, cái lìa ngôn ngữ, lìa biểu tượng, lìa mọi ý niệm tư lường. Chỉ có Thiền Tông mới siêu vượt tất cả ngôn ngữ và biểu tượng, để rồi nói ngắn gọn là Bất Lập Văn Tự, Giáo Ngoại Biệt Truyền.
 

Thầy Thích Minh Châu trong Chương 4 cũng viết "tri kiến thuần túy vượt ra ngoài mọi cơ cấu ngôn ngữ ý niệm." Nghĩa là, nơi đây, Thầy Minh Châu nêu lên giáo lý vô niệm của Lục Tổ Huệ Năng. Nơi đây, Thầy Minh Châu không mượn phương tiện Niệm thân, hay Niệm thọ, hay Niệm tâm, hay Niệm pháp… Nơi đây, Thầy đã nói trực chỉ là hãy thấy "tri kiến thuần túy vượt ra ngoài mọi cơ cấu ngôn ngữ ý niệm." Đây là Thiền Tông, đây là Tổ Sư Thiền, là lìa ngôn ngữ, là lìa ý niệm, là không mượn bất kỳ phương tiện nào.
 

Tại sao vô niệm? Chúng ta hãy thí dụ bằng hình ảnh cụ thể. Giả sử bạn đang xem truyền hình, chương trình gì đó. Giả sử, đang xem kịch. Trong khi xem kịch, bất chợt bạn khởi niệm, nghĩ tới ngày mai đóng tiền nhà, hay nghĩ tới hồi chiều quên đi chợ, hay khi thấy hình ảnh góc phố trên TV lại nhớ tới thời thơ ấu, hay khởi niệm chê diễn kịch dở hay khen kịch hay… Bất kỳ ý niệm nào khởi lên, đều làm gián đoạn việc bạn đang xem kịch, và bạn có thể mất đi một khoảng thời gian trong kịch. Đó là cái được thấy. Trong khi bạn đang thấy, hễ khởi lên bất kỳ ý niệm nào, cũng làm xen tạp vào cái được thấy, và chỉ làm phá hoại hay gián đoạn cái được thấy.
 

Bây giờ tới cái được nghe. Giả sử bạn đang nghe một ca khúc. Trong khi đang nghe, bất chợt bạn khởi niệm, nghĩ tới ngày mai đóng tiền nhà, hay nghĩ tới hồi chiều quên đi chợ, hay khi nghe một nốt nhạc quen thuộc thế là lại nhớ tới thời thơ ấu, hay khởi niệm chê hát nhạc dở hay khen nhạc hay… Bất kỳ ý niệm nào khởi lên, đều làm gián đoạn việc bạn đang nghe nhạc, và bạn có thể mất đi một khoảng thời gian trong chuỗi nốt nhạc. Đó là cái được nghe. Trong khi bạn đang nghe, hễ khởi lên bất kỳ ý niệm nào, cũng làm xen tạp vào cái được nghe, và chỉ làm phá hoại hay gián đoạn cái được nghe.

Nơi đây, Thiền Tông dẫn chúng ta về Kinh Bahiya, khi Đức Phật từ bi dạy rằng hãy để cái được thấy chỉ là cái được thấy, và hãy để cái được nghe chỉ là cái được nghe (và hiểu ngầm rằng, như Lục Tổ Huệ Năng nói, và như Thầy Minh Châu lập lại: rằng bất kỳ niệm nào khởi lên đều làm quậy sóng dòng sông thực tại).
 

Đó là hình ảnh của Thầy Thích Minh Châu đang quảng diễn pháp môn Bất Lập Văn Tự, Giáo Ngoại Biệt Truyền.

 

GHI CHÚ:

(1) Kinh AN 5.26: https://suttacentral.net/an5.26/vi/minh_chau

(2) Kinh AN 6.46: https://suttacentral.net/an6.46/vi/minh_chau

(3) Đại Thừa và sự Liên Hệ với Tiểu Thừa: https://thuvienhoasen.org/a5928/dai-thua-va-su-lien-he-voi-tieu-thua

(4) Trước Sự Nô Lệ của Con Người: https://thuvienhoasen.org/p87a26169/truoc-su-no-le-cua-con-nguoi

 

 

 

 




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Phó Tổng Thống Mike Pence, lãnh đạo lực lượng chống vi khuẩn corona của chính phủ, đang công khai vẽ một bức tranh màu hồng về đại dịch thông qua những lời nói và hành động của mình trong bối cảnh Tổng Thống Donald Trump thúc đẩy mở lại đất nước và tiếp tục vận động tranh cử, theo CNN cho biết hôm Thứ Ba, 16 tháng 6. Nhưng bất chấp những nỗ lực của chính phủ để tuyên bố đại dịch đã qua, 18 tiểu bang hiện đang trải qua sự gia tăng trong các trường hợp bị lây bệnh. Và các viên chức y tế đã kêu gọi người Mỹ thực hiện các hướng dẫn của lực lượng chống vi khuẩn corona - bao gồm đeo khẩu trang và giữ khoảng cách xã hội - để làm chậm sự lây lan, và một mô hình chính được Bạch Ốc sử dụng hiện đang dự đoán hơn 200,000 người chết vào tháng 10 năm nay. "Chúng ta có thể hoàn tất với đại dịch, nhưng đại dịch không chấm dứt với chúng ta," theo Tiến sĩ Ashish Jha, giám đốc Viện Sức Khỏe Toàn Cầu Harvard, cho biết trong Cuộc Hội Thoại STAT hôm Thứ Ba.
Tổng Thống Trump hôm Thứ Ba, 16 tháng 6, đã ký ban hành sắc lệnh hành pháp về cải tổ cảnh sát và nói rằng “các vụ làm nghẹt thở sẽ bị cấm ngoại trừ nếu mạng sống của cảnh sát viên gặp nguy cơ” trong khi quốc gia này quay cuồng với cái chết của George Floyd trong sự giam giữ của Ty Cảnh Sát Minneapolis và tình trạng bất ổn tiếp theo - đã gây ra những lời kêu gọi thay đổi chính sách trên toàn quốc quyết liệt như tháo dỡ toàn bộ các bộ phận. Tổng Thống đã đưa ra những bình luận tại Vườn Hồng, trong đó ông đánh một giai điệu hòa giải đồng thời bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ đối với cảnh sát trước khi chính thức ký lệnh, mà ông cho thấy là thúc đẩy "các tiêu chuẩn chuyên nghiệp cao nhất.” Ông cũng nói, “Những tiêu chuẩn này sẽ cao và mạnh như có trên Trái Đất.”
John Bolton sắp xuất bản một cuốn sách nói về thời gian làm cố vấn an ninh quốc gia của Tổng Thống Donald Trump, và đã ghi âm một cuộc phỏng vấn độc quyền với ABC News. Nhưng vào Thứ Ba, 16 tháng 6 Bộ Tư Pháp đã đệ đơn kiện Bolton, tìm cách ít nhất là tạm thời ngừng phát hành cuốn hồi ký của ông, “The Room Where It Happened,” theo thông tin công khai về vụ này cho biết, sẽ cung cấp một cuốn sách khá gay gắt về cách mà Trump thực hiện chính sách đối ngoại của mình. Mấu chốt của vụ kiện của Bộ Tư Pháp là Bolton không hoàn tất quy trình sàng lọc trước khi xuất bản để sàng lọc thông tin mật và rằng ông đã vi phạm thỏa thuận không tiết lộ. Nhưng luật sư của Bolton, Charles Cooper, đã viết trên tờ Wall Street Journal gần đây rằng một bản đánh giá mở rộng đã được hoàn thành và những tuyên bố rằng cuốn hồi ký chứa bí mật quốc gia là “nỗ lực trắng trợn dùng lý do an ninh quốc gia để kiểm duyệt ông Bolton, trong việc vi phạm quyền lập hiến của mình để nói đến các vấn đề nội dung công khai
Câu hỏi đang đặt ra ở Biển Đông là Trung Quốc có âm mưu gì khi bất ngờ gia tăng đe dọa và phủ nhận quyền chủ quyền của các nước có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Nam Dương, Mã Lai và Brunei, vào lúc cả thế giới lo phòng, chống dịch nạn Vũ Hán, xuất phát từ Trung Quốc từ đầu năm 2020 (Coronavirus disease 2019 (COVID-19). Để trả lời cho thắc mắc này, cũng như liệu tranh chấp giữa Mỹ và Trung Quốc ở Biển Đông có đưa đên nguy cơ chiến tranh hay không, xin mời bạn đọc theo dõi nội dung Cuộc phỏng vấn của tôi với Giáo sư ngoại hạng (Professor Emeritus), Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Hùng, người từng giảng dậy nhiều năm về Quan hệ Quốc tế tại Đại học George Mason, gần Thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Giáo sư Hùng là Học giả cao cấp bất thường trú của Trung tâm nghiên cứu Chiến lươc và quan hệ Quốc tế ở Washington, D.C. (Center for Strategic and International Studies, CSIS). Ngoài ra ông còn là Học giả vãng lai hai niên khóa 2015-2016 tại viện nghiên cứu nổi tiếng ISEAS-Yusof Is
Mỗi lần tôi tới thăm, Dì hay kể chuyện Dì vui đùa bên con cái. Chuyện các con hay chọc Dì khi Dì nói giỡn. Các con hay kêu, “Mẹ à!” Cái chữ à, Dì kéo thật dài. Những ai gặp Dì lần đầu sẽ không biết những ngổn ngang niềm riêng Dì chôn chặt trong lòng. Dì hay nói, “Sao bây giờ Dì quên nhiều lắm.” Ai lớn tuổi mà lại không hay quên. Tôi chưa lớn tuổi mà cũng hay quên nè. Dì không hẳn bị lẩn. Phần nhiều là bị mất thăng bằng về tình cảm. Dì hay nhắc chuyện cũ với người thân, nhất là Bà Ngoại và con trưởng của Dì. Rồi có lúc, Dì nói chuyện như thể người Mẹ đã đi xa mười mấy năm của Dì vẫn còn sống.
Các binh sĩ Ấn Độ và Trung Quốc đã đụng độ ở biên giới qua đêm, khiến 20 binh sĩ Ấn Độ thiệt mạng và đánh dấu thương vong đầu tiên trong cuộc xung đột giữa hai cường quốc trong nhiều thập niên. “Quân đội Ấn Độ và Trung Quốc đã thảnh thơi tại khu vực Galwan, nơi họ đã đụng độ trước đó vào đêm 15/16 tháng 6 năm 2020,” theo Đại Tá Aman Anand, phát ngôn viên của quân đội Ấn Độ, nói với ABC News. “17 binh sĩ Ấn Độ bị thương nặng trong lúc thi hành nhiệm vụ tại vị trí lộ thiên và chịu nhiệt độ dưới 0 ở địa hình cao độ đã gục ngã trước những tổn thương của họ, khiến tổng số người thiệt mạng trong cuộc đụng độ lên đến 20.”
Quân đội của Bắc Hàn cảnh báo họ đã sẵn sàng vào khu vực phi quân sự chia cắt hai miền Triều Tiên. Mối đe dọa này một phần là để đáp trả các nhóm đào ngũ từ Bắc xuống miền Nam gửi tài liệu tuyên truyền về phía bắc. Cuối tuần qua, Kim Yo-jong, em gái của nhà lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong-un, cho biết cô đã ra lệnh cho quân đội chuẩn bị bước đi này. Và quân đội bây giờ nói rằng họ đã sẵn sàng "biến chiến tuyến thành một pháo đài và nâng cao cảnh giác quân sự."
Tàu Hải Dương 4 của Trung Cộng đã vào vùng biển VN chỉ cách đảo Phú Quý chừng 182 hải lý hôm Thứ Ba, 16 tháng 6 năm 2020, theo bản tin của Đài Á Châu Tự Do (RFA) cho biết hôm Thứ Ba.
Sau khi ông George Floyd bị chết dưới bạo lực cảnh sát, một phong trào biểu tình chống kỳ thị người da đen đã bùng nổ và lan rộng khắp nước Mỹ và trên thế giới. Phong trào có sự tham gia của mọi tầng lớp, của nhiều sắc tộc khác nhau, trong đó có người Việt Nam. Sự kiện này đã dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong tập thể người Việt, do cách nhìn trái chiều về vấn đề kỳ thị chủng tộc đối với người da đen và phong trào Black Lives Matter. Đặc biệt là giữa thế hệ trẻ và thế hệ những người lớn tuổi trong cộng đồng. Là một tổ chức đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền Việt Nam, với chủ trương Đấu tranh bất bạo động, đảng Việt Tân đã từng lên tiếng ủng hộ các phong trào biểu tình của người dân như ở Hong Kong. Chúng tôi có cuộc phỏng vấn với ông Hoàng Tứ Duy, Phát ngôn nhân Đảng Việt Tân, về nhận xét của ông đối với phong trào Black Lives Matter và sự tham gia của giới trẻ Việt Nam trong các cuộc xuống đường đòi công lý cho người Mỹ da đen.
Lời người dịch: Hồi cuối tuần qua, hơn một ngàn sinh viên sĩ quan West Point khóa 2020 đã làm lễ bế mạc khóa huấn luyện, bao gồm 7 sĩ quan gốc Việt. Ngay trước ngày lễ tốt nghiệp này, hàng ngàn niên trưởng West Point (The Long Gray Line), được xem là một giới tinh hoa và ưu tú của quân lực Hoa Kỳ, đã gởi thư chúc mừng khóa đàn em và tái nhắc nhở lời tuyên hứa cùng các giá trị mà người sĩ quan West Point cam kết sẽ theo đuổi và bảo vệ. Lá thư đăng trên trang Medium tái xác định vai trò phi chính trị và phi đảng phái của quân đội và chỉ bảo vệ hiến pháp, quốc gia cùng người dân. Bức tâm thư xem ra có giá trị với cả quân đội tại những quốc gia khác. ND
Theo văn chương vỉa hè thì “thợ lặn” là từ để ám chỉ những tay tổ nào khôn mánh quá Trời. Mỗi khi có người nào cần mượn hay nhờ vả họ làm cái gì đó là họ né liền, trốn biền biệt hoặc phịa ra đủ thứ lý do để khỏi làm…đúng theo câu “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”. Hình như số nầy hơi nhiều. Mà cũng ngộ, ngày xưa bên nhà, cái bếp là vùng bất khả xâm phạm, một thứ no man’s land đối với đàn ông con trai. Lỡ rũi có láng cháng xuống đó là bị mấy bà, biểu đi lên nhà trên đi, đi chổ khác chơi. Đây là chổ của đàn bà con gái, xuống đây làm gì.
Cuộc đời đưa đẩy tôi làm y công cho một bệnh viện ở Montreal. Công việc của tôi là chăm sóc người bệnh, giúp cho họ có được những giây phút thoải mái để cuộc sống dễ chịu hơn trong những ngày cuối cùng của đời họ trên dương thế nầy. Đó là những người bệnh già, bệnh nhân lú lẫn Alzheimer, những người bị ung thư vào giai đoạn cuối, những người mới vừa được mổ và những người bị bệnh tâm thần, v.v… Bệnh nhân được tôi săn sóc nằm trong khoảng tuổi từ 18 đến 101 tuổi. Có người còn rất trẻ, đâu trên dưới 20 tuổi mà phải chịu nằm chờ chết vỉ họ bị ung thư não. Có người bị cancer vú, mùi hôi thúi nồng nặc rất khó chịu, cần phải băng bó vết thương lại bằng những loại băng có chất than charbon activé cho đỡ hôi thúi. Họ không ngớt rên la cả đêm vì quá đau đớn và khó chịu. Họ thường năn nỉ để xin thuốc morphine nhằm giúp họ giảm đau.
Có 4 loại thức ăn trong cõi này: 1. Đoàn thực hay đoạn thực 2. Xúc thực 3. Ý tư thực 4. Thức thực
Việc triển khai 3 hàng không mẫu hạm 100,000 tấn của Hải Quân Hoa Kỳ tới Thái Bình Dương lần đầu tiên sau nhiều năm đã loam cho TQ nhanh chóng phản ứng, với truyền thông nhà nước nói rằng Bắc Kinh sẽ không lùi bước để bảo vệ lợi ích của mình trong khu vực, theo CNN cho biết hôm Thứ Hai, 15 tháng 6 năm 2020. USS Ronald Reagan và USS Theodore Roosevelt đều đang tuần tra ở phía tây Thái Bình Dương, trong khi USS Nimitz ở phía đông, theo thông cáo báo chí của Hải Quân Hoa Kỳ. Với mỗi tàu chứa hơn 60 máy bay, nó đại diện cho việc triển khai lớn nhất các hàng không mẫu hạm Mỹ ở Thái Bình Dương kể từ năm 2017 - khi căng thẳng với Bắc Hàn về chương trình vũ khí hạt nhân của Bình Nhưỡng đang ở đỉnh điểm.
Thành phố Bắc Kinh đã chứng kiến hơn 100 trường hợp mới bị lây vi khuẩn corona trong đợt bùng phát mới, theo Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) cho biết. Trong hơn 7 tuần, Bắc Kinh chỉ có các trường hợp bị lây nhiễm được ghi nhận từ những người đi du lịch từ nước ngoài. Mike Ryan, người đứng đầu chương trình khẩn cấp của WHO cho biết, loạt bị lây vi khuẩn corona mới là "luôn luôn là mối lo ngại." "Nhưng những gì chúng tôi muốn thấy là một phản ứng ngay lập tức với các biện pháp toàn diện," ông nói thêm. Truyền thông địa phương nói rằng vi khuẩn đã được phát hiện trên thớt cá được sử dụng cho cá hồi nhập cảng ở chợ, khiến các siêu thị lớn ở Bắc Kinh kéo cá ra khỏi kệ của họ.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.