Hôm nay,  

Đức Phật dạy lìa xan tham

16/10/202222:04:00(Xem: 5174)
blank

Đức Phật dạy lìa xan tham

 

Nguyên Giác

 

 

Bài này sẽ nói tới đoạn tận xan tham, và sẽ ghi lại những lời dạy của Đức Phật ít được chú ý tới. Xan tham là gốc từ “ái” nên sinh ra cái “khả ý” và “bất khả ý” tức là ưa/ghét. Đoạn tận xan tham cũng là lìa ba độc tham, sân, si. Tức là giải thoát.

 

Chữ “xan tham” là cách dịch của Thầy Minh Châu, với chữ xan là keo kiệt, và tham là tham muốn. Cả hai chữ xan và tham đều có nghĩa gần nhau, đều là chấp có cái gì là “ta” và “của ta” và “muốn gì cho ta.” Trong nhóm Kinh Tăng Chi Bộ AN 5.254, AN 5.255, AN.256, AN 5.257-263, AN 5.264, AN 5.265-271 đều cùng chủ đề về Xan tham. Hai bản dịch tiếng Anh của hai Thầy Sujato và Thanissaro dịch là “Stinginess” tức là “Keo kiệt.” Đức Phật dạy rằng hễ còn tâm xan tham thì không giải thoát nổi. Do vậy, cần phải bứng gốc rễ tâm keo kiệt, tâm xan tham.

 

Trong Kinh AN 5.254, Đức Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh Châu: “Này các Tỷ-kheo, có năm xan tham này. Thế nào là năm? Xan tham trú xứ, xan tham gia đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp. Này các Tỷ-kheo, có năm xan tham này. Trong năm xan tham này, này các Tỷ-kheo, cái này là tối hạ liệt, tức là xan tham pháp.” (1)

 

Tối hạ liệt nghĩa là tệ vô cùng tận. Bởi vì xan tham trú xứ là còn ưa thích niềm vui chùa lớn, nhà cao cửa rộng. Xan tham gia đình là còn ưa thích niềm vui gia tộc, tông phái, bạn hữu. Xan tham lợi dưỡng là còn ưa thích niềm vui lợi nhuận, cung dưỡng. Xan tham tán thán là còn ưa thích niềm vui được khen ngợi, được phong chức, được trao quyền. Xan tham pháp là còn ưa thích niềm vui giữ riêng pháp này, biện biệt pháp kia.

 

Trong Kinh AN 5.525, Đức Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh Châu: “Do đoạn tận, cắt đứt năm xan tham, này các Tỷ-kheo, Phạm hạnh được thực hiện. Thế nào là năm? Do đoạn tận, cắt đứt xan tham trú xứ, Phạm hạnh được thực hiện. Do đoạn tận, cắt đứt xan tham gia đình…xan tham lợi dưỡng…xan tham tán thán…xan tham pháp, Phạm hạnh được thực hiện.” (2)

 

Trong Kinh AN 5.526, Đức Phật dạy, theo bản dịch của Thầy Minh Châu: “Do không đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền. Thế nào là năm? Xan tham trú xứ, xan tham gia đình, xan tham lợi dưỡng, xan tham tán thán, xan tham pháp. Do không đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền. Do đoạn tận năm pháp này, này các Tỷ-kheo, có thể chứng đạt và an trú sơ Thiền.” (3)

 

Cách đối trị tâm xan tham là hãy bố thí và chia sẻ. Trong Kinh Iti-26, Đức Phật dạy (nơi đây, dịch theo 2 bản Anh văn của Sujato và John D. Ireland): “Các tỳ kheo, nếu chúng sinh chỉ biết, như ta biết, về phước báo của bố thí và chia sẻ, họ sẽ không ăn mà không cho trước, và vết nhơ của keo kiệt sẽ không chiếm lấy tâm trí họ. Họ sẽ không ăn mà không chia sẻ dù chỉ một ngụm ăn cuối cùng, một miếng cuối cùng của họ, miễn là có người nhận. Chính vì chúng sinh không biết, như ta biết, về phước báo của bố thí và chia sẻ, nên họ ăn mà không bố thí trước, và vết nhơ keo kiệt chiếm lấy tâm trí họ.” (4)

 

Tuy nhiên, dù đã lìa tâm xan tham, nhưng chưa chắc đã có cơ duyên và phương tiện để tu pháp bố thí. Vẫn có những hoàn cảnh, tuy có khởi tâm bố thí nhưng vẫn không có điều kiện để bố thí. Kinh AN 5.31 kể về phước báo của bố thí, ghi lời Đức Phật trả lời một nữ cư sĩ, trích bản dịch của Thầy Minh Châu:

“…Sumanà, con gái vua bạch Thế Tôn: Ở đây, bạch Thế Tôn, có hai đệ tử của Thế Tôn đồng đẳng về tín, đồng đẳng về giới, đồng đẳng về tuệ, một có bố thí, một không bố thí. Sau khi thân hoại mạng chung, cả hai được sanh lên cõi lành Thiên giới. Giữa hai vị thiên ấy, có sự đặc thù gì, có sự sai khác gì?

Thế Tôn đáp: Có sự sai biệt, này Sumanà. Người có bố thí, khi được làm vị Thiên, vượt qua vị Thiên không có bố thí trên năm phương diện. Về thiên thọ mạng, về thiên sắc, về thiên lạc, về thiên danh xưng, về thiên tăng thượng. Người có bố thí, này Sumanà, khi được làm vị Thiên, vượt qua vị Thiên không bố thí trên năm phương diện này.”

 

Tương tự, Đức Phật nói về 2 đệ tử Thế Tôn sinh lại làm người, cũng đồng đẳng về tín, đồng đẳng về giới, đồng đẳng về tuệ, một có bố thí, một không bố thí, thì “Người có bố thí, khi được làm người, vượt qua vị làm người không bố thí trên năm phương diện: Về nhân thọ mạng, về nhân sắc, về nhân lạc, về nhân danh xưng, về nhân tăng thượng. Người có bố thí, này Sumanà, khi được làm người, vượt qua vị làm người không bố thí trên năm phương diện này.”

 

Tương tự, chỉ khi giải thoát (tức lìa tham sân si) thì mới không sai khác, vì giải thoát chỉ có một vị. Kinh AN 5.31 ghi tiếp:

“-- Bạch Thế Tôn, nếu cả hai đều xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Giữa hai người xuất gia ấy, bạch Thế Tôn có thể có những đặc thù gì, những sai khác gì?

Thế Tôn đáp: -- Có sự sai biệt, này Sumanà. Người có bố thí, khi được xuất gia, vượt qua vị xuất gia không có bố thí trên năm phương diện: Thường hay được yêu cầu nhận y, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận đồ ăn khất thực, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận sàng tọa, ít khi không được yêu cầu; thường hay được yêu cầu nhận dược phẩm trị bệnh, ít khi không được yêu cầu. Vị ấy sống với những vị đồng Phạm hạnh nào, các vị này đối với vị ấy, xử sự với nhiều thân nghiệp khả ái, với ít thân nghiệp không khả ái, với nhiều khẩu nghiệp khả ái, với ít khẩu nghiệp không khả ái, với nhiều ý nghiệp khả ái, với ít ý nghiệp không khả ái, giúp đỡ với nhiều giúp đỡ khả ái, với ít giúp đỡ không khả ái. Này Sumanà, người có bố thí khi được xuất gia, vượt qua người không có bố thí trên năm phương diện này.

-- Nhưng bạch Thế Tôn, nếu cả hai đều chứng quả A-la-hán. Với hai vị chứng đạt A-la-hán ấy, bạch Thế Tôn có sự đặc thù nào, có sự sai khác nào?

-- Ở đây, này Sumanà, Ta nói không có sự sai khác nào, tức là so sánh giải thoát với giải thoát.” (5)

 

Như vậy, có cách nào để xóa bỏ hoàn toàn khổ đau, xan tham, keo kiệt… hay không? Nơi đây, chúng ta sẽ dẫn ra Kinh Tiểu Bộ, trong phần Kinh Tập, Kinh Snp 4.11. Bản Việt dịch của Thầy Minh Châu là: (XI) Kinh Tranh luận (Sn 168).

Nhóm Kinh Tập này, Chương 4 còn gọi là Phẩm Tám, gồm 16 Kinh, là cuộc đối thoại giữa Đức Phật và 16 thanh niên, và các thanh niên này thay nhau hỏi Đức Phật, sau khi nghe trả lời, tất cả 16 thanh niên đều trở thành A La Hán.

Tương tự, cũng trong Kinh Tập này, Chương 5 còn gọi là Phẩm Qua Bờ Bên Kia, cũng gồm 16 Kinh, trong sự kiện khác, là cuộc đối thoại giữa Đức Phật và 16 thanh niên khác, và các thanh niên này cũng thay nhau hỏi Đức Phật, sau khi nghe trả lời, tất cả 16 thanh niên đều trở thành A La Hán.

Cả Chương 4 và 5 là Kinh Nhật Tụng của chư Tăng ni trong những năm đầu Đức Phật hoằng pháp, văn cô đọng, uyên áo.

 

Kinh Snp 4.11, Thầy Minh Châu dịch, câu hỏi là: “862. Từ đâu được khởi lên, / Các tranh luận, đấu tranh, / Than van và sầu muộn, / Cùng với tánh xan tham, / Mạn và tăng thượng mạn, / Kể cả với hai lưỡi,/ Từ đâu chúng sanh nhiều,/ Mong Ngài hãy nói lên.” (6)

 

Sau khi giải thích về ái, về ước muốn, về ưa (khả ý) và ghét (bất khả ý), về sắc pháp, về hữu và phi hữu, về tưởng và vô tưởng, tới chìa khóa giải pháp là đoạn tận sắc pháp (con gọi là đạt vô sinh, bất sinh, Niết bàn). Đoạn này, Đức Phật dạy, Thầy Minh Châu dịch:

 

874. Không có tưởng các tưởng,

Không có tưởng vô tưởng,

Phi tưởng cũng không có,

Vô hữu tưởng cũng không.

Do sở hành như vậy,

Sắc pháp không hiện hữu,

Do nhân duyên các tưởng,

Hý luận được hình thành.” (6)

 

Nơi đây, chúng ta nói rõ thêm về tưởng, một chi trong ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Theo tự điển Wikipedia tiếng Anh, tưởng (perception) trong tiếng Pali là saññā, tiếng Hán là 想 (xiǎng), tiếng Việt là tưởng, và là một “tiến trình của căn và tâm, nơi tiến trình này ghi nhận, nhận biết và định danh (thí dụ, hình dáng của một cây, màu xanh lá cây, cảm xúc của sợ hãi).” [sensory and mental process that registers, recognizes and labels (for instance, the shape of a tree, color green, emotion of fear).]

 

Nơi đây, cũng nên ghi thêm rằng đối với người tu pháp tưởng [nhận biết] vô thường, hay tu pháp tưởng [nhận biết] vô ngã, sẽ thường trực thấy trước mắt, bên tai “không hề có gì gọi là cái gì” vì thực tướng các pháp chính là vô tướng. Đây là một cách để hiểu đoạn kinh dẫn trên.

 

Trong Kinh SN 22.79, Đức Phật giải thích về tưởng, theo bản dịch của Thầy Minh Châu: “Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là tưởng? Nhận rõ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là tưởng. Nhận rõ gì? Nhận rõ màu xanh, nhận rõ màu vàng, nhận rõ màu đỏ, nhận rõ màu trắng. Nhận rõ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là tưởng.” (7)

 

Như thế, lời dạy trong Kinh Tập về cách (sở hành) về 4 trường hợp tưởng sẽ dẫn tới sinh tử luân hồi rất phức tạp, nên xin đối chiếu các bản Anh dịch. Tất cả links sẽ ở ghi chú (6), nếu theo các links này sẽ thấy bình luận của A Tỳ Đàm về đoạn kinh này (nhưng, theo người viết, xin nói suy nghĩ thật rằng, bình luận của A Tỳ Đàm là sai, do người đời sau giảng không theo đúng ý Kinh Tập). Theo định nghĩa của Đức Phật, nơi đây chúng ta có vài chỗ thay chữ “tưởng” bằng “nhận biết” khi dịch đoạn Kinh Tập này cho dễ hiểu.

 

Bản dịch Anh văn của Thầy Sujato, trích: “Without normal perception or distorted perception; not lacking perception, nor perceiving what has disappeared. That’s how to proceed so that form disappears: for concepts of identity due to proliferation spring from perception.” (Dịch: “Không có nhận biết bình thường, cũng không có nhận biết bị sai lệch; không có thiếu nhận biết, [cũng] không nhận biết cái đã biến mất. Đó là cách để làm cho sắc pháp biến mất: vì khái niệm về có cái gì từ ‘tưởng’ sẽ dẫn tới hý luận.”)

 

Bản dịch của Ireland: “His perception is not the ordinary kind, nor is his perception abnormal; he is not without perception nor is his perception (of materiality) suspended. — to such an one immateriality ceases. Perception is indeed the source of the world of multiplicity. (Dịch: “Nhận biết của người giải thoát không phải là nhận biết bình thường, cũng không phải khác thường; người này không phải không có nhận biết, cũng không phải nhận biết của người này (về sắc pháp) đã bị ngưng đọng --- với người như thế, sắc pháp đã tịch diệt. Nhận biết thực sự là cội nguồn của thế giới hý luận.”)

 

Bản dịch của Thanissaro: “One not percipient of perceptions, not percipient of aberrant perceptions, not unpercipient, nor percipient of what's disappeared: for one arriving at this, form disappears —for objectification-classifications have their cause in perception.” (Dịch: “Người này không biết về các tưởng, không biết về các tưởng sai lệch, không phải không biết, cũng không phải biết về cái đã biến mất: với người có tâm như thế, sắc pháp biến mất --- vì phân biệt đối tượng hóa sinh khởi từ tưởng.”)

 

Đoạn kinh vừa dẫn rất phức tạp. Trong ghi chú từ A Tỳ Đàm do 3 nhà dịch kinh (Sujato, Ireland, Thanissaro) trong link (6) ghi rằng đây là trạng thái định rất cao, có thể hàm ý là Tứ Thiền hoặc các tầng thiền vô sắc. Thực tế, xin mạn phép nói ý riêng, nếu Đức Phật muốn nói các tầng Thiền, thì đã nói thẳng là các tầng Thiền, như nhiều kinh khác. Xin nhớ rằng, Đề Bà Đạt Đa đã đạt tất cả các tầng thiền và đã có thần thông, nên sinh ra kiêu ngạo, xách động chia rẽ tăng đoàn. Thêm nữa, nhóm 16 thanh niên này là lần đầu gặp Đức Phật, ngay khi vừa nghe dạy xong là chứng quả A la hán, mà không cần trải qua thứ tự tu tập.

 

Xin phép trả lời đây là pháp ai cũng có thể tu tập được, có thể ngay tức khắc kinh nghiệm được, mà không cần ngồi thở, không cần quán tâm gì nữa hết. Trong cái thấy pháp ấn vô ngã, khi tắm được trong dòng chảy pháp ấn vô thường, sẽ thấy không có “tôi, hay của tôi”… sẽ thấy không có cái gì gọi là quá khứ, hiện tại, vị lai… Sẽ thấy không thể có cái gì gọi là cái gì… Bởi vì có nhận biết nhưng không có cái gì gọi là có ai nhận biết, và cũng không có cái gì gọi là cái được nhận biết… Hễ mở miệng ra là thành hý luận, vì sẽ nhầm có cái gì gọi là các pháp… Cái nhận biết pháp ấn như thế là ly nhất thiết tướng, không dính vào những cái được thấy nghe hay biết (Kinh Kim Cang: ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm); là chớ nghĩ thiện, chớ nghĩ ác… lìa tất cả nghĩ ngợi tư lường (Kinh Pháp Bảo Đàn: Vô niệm làm tông, Vô tướng làm thể, Vô trụ làm gốc)… Đó là thấy biết nhưng không dựng lập thấy biết (Kinh Lăng Nghiêm: Thấy biết mà dựng lập thấy biết, chính là  cội gốc vô minh; Thấy biết, không dựng lập thấy biết, tức khắc là Niết Bàn.)…

 

Trong Tạng Pali, nơi Kinh AN 3.16, Đức Phật gọi đó là con đường không lầm lỗi: “Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng....” (Thí dụ: Tướng chung là tướng nam hay nữ, tướng già hay trẻ… Tướng riêng là cái gì làm chúng ta nhận ra cô A khác cô B, anh C khác anh D…)

Trong Kinh SN 47.9, ghi lời Đức Phật dạy: “Không tác ý tất cả tướng...”

Trong Kinh MN 43, ngài Xá Lợi Phất dạy: “Ở đây, này Hiền giả, vị Tỷ-kheo không tác ý với nhất thiết tướng, đạt và an trú vô tướng tâm định. Như vậy, này Hiền giả, gọi là vô tướng tâm giải thoát.”

Trong Kinh MN 143, ngài Xá Lợi Phất dạy ngài Cấp Cô Độc khi bệnh nặng: “Tôi sẽ không chấp thủ những gì được thấy, được nghe, được cảm thọ, được nhận thức, được hy cầu, được tư sát với ý, và tôi sẽ không có thức y cứ vào các pháp (nói trên)…”

Trong Kinh AN 11.9, Đức Phật dạy: “Vị ấy Thiền tư không y chỉ vào đất, Thiền tư không y chỉ vào nước, Thiền tư không y chỉ vào lửa, Thiền tư không y chỉ vào gió, Thiền tư không y chỉ vào Không vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Thức vô biên xứ, Thiền tư không y chỉ vào Vô sở hữu xứ, Thiền tư không y chỉ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thiền tư không y chỉ vào thế giới này, Thiền tư không y chỉ vào thế giới sau, phàm điều gì được thấy, được nghe, được cảm giác, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu đến, được ý suy tư, Thiền tư không y chỉ vào cái ấy. Tuy vậy, vị ấy vẫn có Thiền tư. Lại nữa, này Sandha, với vị ấy Thiền tư như vậy, chư Thiên với Thiên chủ, các Phạm thiên với chúng Phạm thiên, dầu từ xa, đảnh lễ con người hiền thiện thuần thục…”

.

Trong Thiền Tông Việt Nam, có lời dạy của ngài Phước Hậu, như sau:

Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,

Học hành không thiếu cũng không dư,

Năm nay nghĩ lại chừng quên hết,

Chỉ nhớ trên đầu một chữ NHƯ.

Bởi vì với người sống trong pháp ấn, thì đi đứng nằm ngồi đều thấy rằng không hề có ai đi đứng nằm ngồi, chỉ thấy có cái nhận biết không tác ý, và đó là pháp NHƯ, khi tất cả hiển lộ trước mắt và bên tai đều là giải thoát.

 

Trong Kinh AN 4.24, Đức Phật giải thích, đúng là pháp vô niệm y hệt như Huệ Năng, đúng là pháp Như y hệt ngài Phước Hậu, qua bản dịch của Thầy Minh Châu như sau, trích:

Như Lai là vị đã thấy những gì cần thấy, nhưng không có tưởng tượng điều đã được thấy, không có tưởng tượng những cái gì không được thấy, không có tưởng tượng những gì cần phải thấy, không có tưởng tượng đối với người thấy. Đã nghe những gì cần nghe, nhưng không có tưởng tượng điều đã được nghe, không có tưởng tượng những cái gì không được nghe, không có tưởng tượng những gì cần phải nghe, không có tưởng tượng đối với người nghe. Đã cảm giác những gì cần cảm giác, nhưng không có tưởng tượng điều đã được cảm giác, không có tưởng tượng những cái gì không được cảm giác, không có tưởng tượng những gì cần phải cảm giác, không có tưởng tượng đối với người cảm giác. Đã thức tri những gì cần thức tri, nhưng không có tưởng tượng điều đã được thức tri, không có tưởng tượng những cái gì không được thức tri, không có tưởng tượng những cái gì cần phải thức tri, không có tưởng tượng đối với người thức tri.” (8)

 

Có cách nào đơn giản để trải nghiệm ngay không? Bạn có thể thử thực tập ngay bây giờ: “Hãy tỉnh thức với tâm không biết.” Khi tỉnh thức với tâm không biết như thế, tức là có tưởng, có nhận biết, vẫn xem trận bóng đá trên TV, vẫn nghe ca hát trên TV, tất cả pháp vừa tới mắt và tai liền biến mất, nên không gọi là có tưởng bình thường, cũng không gọi là có tưởng sai lệch, cũng không có [tướng] gì để nắm giữ hay buông bỏ vì không có gì gọi được là cái gì, cũng không hề có thiếu nhận biết, cũng không hề có tưởng gì về những cái đã biến mất (quá khứ). Ngay khi bạn tỉnh thức với tâm không biết, bạn thấy tất cả tham sân si biến mất.

 

Như thế, tâm xan tham keo kiệt sẽ từ từ vắng bặt. Người này vẫn đi đứng nằm ngồi, vẫn biết có những cử động đang đi đứng nằm ngồi, vẫn thấy rõ không hề có ai đang đi đứng nằm ngồi, chỉ thấy và cảm nhận cái rỗng rang tịch lặng đang hiện ra tướng đi đứng nằm ngồi… Điều kỳ lạ, cả hai Chương 4 (Phẩm Tám) và Chương 5 (Phẩm Qua Bờ Bên Kia) trong Kinh Tập là Kinh Nhật Tụng của Tăng Đoàn trong những năm đầu Đức Phật hoằng pháp, lại là những lời dạy ít được chú ý nhất. Cũng chính là cốt tủy của Thiền Tông Việt Nam.

 

GHI CHÚ:

(1) Kinh AN 5.254: https://suttacentral.net/an5.254/vi/minh_chau

(2) Kinh AN 5.525: https://suttacentral.net/an5.255/vi/minh_chau

(3) Kinh AN 5.526: https://suttacentral.net/an5.256/vi/minh_chau

(4) Kinh Iti-26: https://suttacentral.net/iti26/en/sujato

(5) Kinh AN 5.31: https://suttacentral.net/an5.31/vi/minh_chau

(6) HT Minh Châu, Kinh Snp 4.11: https://thuvienhoasen.org/p15a1547/chuong-04-pham-tam

Bản Sujato: https://suttacentral.net/snp4.11/en/sujato

Bản Ireland: https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.4.11.irel.html

Bản Thanissaro: https://accesstoinsight.org/tipitaka/kn/snp/snp.4.11.than.html  

(7) Kinh SN 22.79: https://suttacentral.net/sn22.79/vi/minh_chau

(8) Kinh AN 4.24: https://suttacentral.net/an4.24/vi/minh_chau

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Các tài liệu này xác định 3 trọng tội liên bang mà Bộ Tư Pháp đang tìm kiếm như một phần của cuộc điều tra: - Vi phạm Đạo Luật Gián Điệp, - Cản trở công lý - Trọng tội trong việc xử lý các hồ sơ chính phủ Việc đưa vào các trọng tội cho thấy Bộ Tư Pháp có nguyên do chính đáng để mở cuộc điều tra vào những tội trạng đó khi họ đã thu thập bằng chứng trong cuộc lục soát. Không ai bị truy tố với một trọng tội nào cho đến lúc này.
Buổi trưa ngày thường ít người qua lại, trung tâm thương mại này ít người đến. Trước khi bước vào phòng triển lãm để xem những cây kiểng trên cả trăm năm, trước cửa phòng này hoa lá rực trời. Hoa, cây kiểng bên ngoài chủ nhân là người Hoa, người Thái Lan, còn trong phòng triển lãm là của hội cây kiểng Việt Nam, chủ vườn là người Việt Nam. Hàng năm, chúng tôi thường đi xem triển lãm của hội này ở chùa Việt Nam, thành phố Garden Grove...
Những người vợ tù bây giờ đã cùng chồng tích cực nhận lãnh vai trò “tác nhân,” thay vì chỉ nhẫn nhục “cam chịu lịch sử” như lớp người đi trước, dù họ vẫn bị đe dọa và sách nhiễu thường xuyên...
Cơ Quan FBI đã lục soát nhà của cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump tại Palm Beach, Florifa, để tìm các tài liệu mật liên quan đến vũ khí nguyên tử, theo báo the Washington Post tường trình, trích thuật các nguồn tin thân cận với vấn đề này. Washington Post viết rằng các chuyên gia về thông tin mật nói rằng việc lục soát biểu trưng cho mối quan tâm nghiêm trọng trong số nhiều viên chức chính phủ đối với những gì mà thông tin có thể được cất giữ tại nhà Mar-a-Lago của Trump, cho biết thêm rằng thật là nguy hiểm nếu các tài liệu như thế rơi vào tay kẻ xấu.
Một người vợ hoặc chồng là người ngoại quốc nhập cảnh Hoa Kỳ với loại chiếu khán (visa) phi-di-dân, không vi phạm diện nhập cảnh, có thể nộp đơn xin Thẻ Xanh nếu họ hợp lệ để xin chiếu khán di dân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp nộp đơn xin thẻ xanh theo diện đầu tư EB-5 trực tiếp kinh doanh, hay lao động EB-3. Chúng tôi sẽ viết về 2 diện EB này trong những kỳ tới.
Vào lúc 10 giờ sáng Chủ Nhật ngày 7 tháng 8 năm 2022 tại hội trường chùa Điều Ngự địa chỉ: 14472 Chestnut Street, Thành Phố Westminster, CA 92683, do Hòa Thượng Thích Viên Lý Viện Chủ, Hòa Thượng Thích Viên Huy Trụ Trì, tại đây cũng là nơi đặc văn phòng thường trực của Tăng Đoàn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại, đã long trọng tổ chức Đại Lễ Vu Lan năm 2022.
Chương trình khánh thành khu parking đã diễn ra tại đền thờ Đức Quốc Tổ Hội Cao Niên Á Mỹ địa chỉ số 220 Hospital Circle, Westminster do Bà Từ Dung sáng lập và hiện tại do Hoa hậu Lam Châu CEO điều hành.
Nam California , Thành Phố Westminster (Thanh Huy) -- Vào lúc 10 giờ sáng Chủ Nhật ngày 7 tháng 8 năm 2022 tại QD Venue, thành phố Westminster. như thông lệ hằng năm Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Người Thương Binh Việt Nam Cộng Hòa do Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH tổ chức nhằm gây quỹ giúp các thương phế binh VNCH đang sống lây lất tại quê nhà.
Tù nhân lương tâm Phạm Đoan Trang tại Việt Nam vào ngày 8/8 được Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos của Quốc hội Hoa Kỳ chính thức nhận đơn bảo trợ. / Theo bản tin VOA, Chỉ vài giờ sau khi lên án việc FBI lục soát tư gia của mình ở Florida là truy bức chính trị, cựu Tổng thống Donald Trump công bố một video kiểu vận động tranh cử. Đây có thể là dấu hiệu rõ ràng nhất cho thấy ông định ra tranh cử đối chọi với Tổng thống Joe Biden vào năm 2024.
Cuộc thăm dò hiện đang tiến hành, và Pechanga Resort Casino lại một lần nữa tranh đua hai ngôi vị tên tuổi cả nước. Cơ sở Casino/Resort tọa lạc ở vùng Temecula, Cali này đã được đề cử bởi một đoàn chuyên viên các cuộc thăm dò ý kiến '10Tuyệt Vời Nhất của độc giả USA Today’s10Best.com' trong hai thể loại 'Sòng Bài Khách Sạn Tuyệt Vời Nhất – Best Casino Hotel' và 'Sòng Bài Tuyệt Vời Nhất Ngoài Las Vegas – Best Casino Outside of Las Vegas'. Các thành viên trong đoàn chuyên viên đã chọn Pechanga, cùng với 19 cơ sở tranh đua khác cho mỗi thể loại. Theo CasinoUSA.com, nước Mỹ có trên 1,000 sòng bài. Muốn bỏ phiếu cho Pechanga Resort Casino trong cả hai thể loại, quý khách có thể vào thăm trang mạng Pechanga.com/vote.
Với công cuộc xây cất sắp hoàn tất và việc thuê mướn nhân viên đang tiến hành, sòng bài Sky River Casino, hôm nay, đã loan báo kế hoạch mở cửa đón tiếp công chúng vào đầu Tháng Chín 2022. Nằm cách 'downtown' Sacramento 15 dặm về phía Nam, Sky River sẽ là sòng bài gần nhất đối với Sacramento và các vùng South và East Bay. Kèm thêm vào một sòng bài rộng 100,000 sqft với 2,000 máy kéo và 80 bàn bài, Sky River cũng còn có 17 nhà hàng và trung tâm ăn uống độc đáo “The Market at Sky River” với 12 cửa hàng món ăn thức uống khác nhau, bao gồm cả những món tuyệt vời do những nhà hàng tên tuổi tại địa phương và trong vùng cống hiến. Sky River được thành lập bởi Boyd Gaming, là công ty sẽ điều hành cơ sở qua một hợp đồng quản lý ký kết với Bộ Tộc Wilton Rancheria Tribe.
HOA KỲ – Johnson & Johnson (J&J) thông báo sẽ ngừng bán sản phẩm phấn rôm trẻ em làm từ bột talc trên toàn cầu vào năm 2023, theo Reuters đưa tin ngày Thứ Năm, 11 tháng 8 năm 2022.
HOA KỲ – Trong hướng dẫn mới được cập nhật, Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bệnh Hoa Kỳ (CDC) không còn khuyến nghị các chương trình cách ly hoặc kiểm tra để lưu trú tại các trường học hoặc nhà trẻ cho những người có tiếp xúc với người bị nhiễm COVID-19, theo Reuters đưa tin ngày Thứ Năm, 11 tháng 8 năm 2022.
WILMINGTON – Một người đàn ông có vũ trang đã cố gắng đột nhập văn phòng của FBI ở Cincinnati, và đã bị cảnh sát bắn chết sau khi bỏ trốn khỏi hiện trường, theo APnews đưa tin ngày Thứ Năm, 11 tháng 8 năm 2022.
✱ Eric Trump: Cuộc khám xét của FBI tại Mar-a-Lago nhằm tìm kiếm các tài liệu thuộc Cơ quan Lưu trữ Quốc gia ✱ PBS: Các đại diện của Trump đã xác nhận nhiều hồ sơ “chưa được chuyển đến Cơ quan Lưu trữ Quốc gia vào cuối thời chính quyền Trump”- đại diện của cựu tổng thống đang tiếp tục tìm kiếm các hồ sơ còn thiếu sót ✱ PRA: Mọi tài liệu liên quan đến việc điều hành công việc của tổng thống, theo luật định thuộc về chính phủ - Bất kỳ ai, lưu giữ bất kỳ hồ sơ, tài liệu... sẽ bị phạt theo luật định, và sẽ bị tước bỏ chức vụ và không đủ tư cách đảm nhiệm bất kỳ chức vụ nào trong chính phủ. ✱ CNN: Các đặc vụ trở lại Mar-a-Lago đã cố gắng thuyết phục nhằm lấy lại các tài liệu còn lại chưa được chuyển giao - Nhưng sau nhiều tháng đàm phán không có kết quả, nên... ✱ Law & Crime: FBI muốn có một lệnh khám xét, họ phải nêu ra các bằng chứng cụ thể hầu thuyết phục vị thẩm phán liên bang về việc sẽ tìm được chứng cứ phạm tội tại Mar-a-Lago.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.