Hôm nay,  

Đọc Thơ Nguyễn Bá Chung: Một cõi thơ thiền tịch mặc

27/12/202207:52:00(Xem: 5345)
blank 

Đọc Thơ Nguyễn Bá Chung:

Một cõi thơ thiền tịch mặc

 

Phan Tấn Hải

 

Bất ngờ, tôi mới nhận ra rằng GS Nguyễn Bá Chung cũng là một nhà thơ. Bởi vì một thành kiến tôi có từ lâu, một học giả thường không làm thơ. Trước giờ tôi vẫn nghĩ rằng GS Nguyễn Bá Chung là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu, và là người dịch sang tiếng Anh nhiều bài thơ thời Lý, Trần và thời Lê, Nguyễn --- và đó là những gì tôi từng chú ý nhất, khi đọc hai bản Anh dịch của họ Nguyễn: tập “Ly Tran Zen Poems” (nxb Văn Hóa Sài Gòn, 2005, tái bản 6/2007) và “Le Nguyen Zen Poems” (nxb Hội Nhà Văn 6/2019). Lúc đó, tôi không chú tâm về những sách khác do GS Nguyễn Bá Chung (NBC) dịch, như tiểu thuyết, truyện, thơ… Và rồi một bất ngờ, khi tôi khám phá ra Nguyễn Bá Chung cũng là một nhà thơ rất mực lãng đãng Thiền học, thơ mộng tột vời.
 

Tập thơ mới của NBC nhan đề “Thơ Nguyễn Bá Chung tuyển tập” vừa do nxb Hội Nhà Văn ấn hành vào tháng 10/2022 cho độc giả thấy một cuộc đời khác, một hình ảnh khác về NBC. Hầu hết các bài thơ trong tuyển tập không ghi ngày tháng, nhưng hai bài ‘Lễ hội Côn Sơn I, II” ghi nơi sáng tác là “Chùa Hun, Tháp Huyền Quang, Đền Nguyễn Trãi – Côn Sơn 96” và bài “Qua tháp Trần Nhân Tông” ghi là “Núi Yên Tử 1996” --- nghĩa là, có những bài thơ từ rất nhiều thập niên xa xưa.
 

Tập thơ dày 320 trang, mở đầu tập là lời giới thiệu của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (NQT) nhan đề “Nguyễn Bá Chung và một con đường.” Trong đó, theo Nguyễn Quang Thiều, NBC là một tổng hợp tuyệt vời của tinh thần Phật giáo và văn hóa Việt. Và rồi NQT trích dẫn 4 câu thơ của NBC:

 

Thành quách xa xưa hồn ngỡ lạc

Tiếng chuông chùa cổ bóng nào lay

Người về hỏi chuyện vườn quê vắng

Cỏ đã xanh màu, đất đã thay…

 

Tuyển tập thơ của NBC gồm 206 bài thơ, chia làm 5 phần: Phần I Mưa Ngàn, Phần II Ngõ Hạnh, Phần III Tuổi Ngàn Năm, Phần IV Nguồn, Phần V 20 bài thơ rời.
 

Hầu hết thơ của NBC là về những cảm xúc rất Việt Nam. Trừ vài bài thơ về xứ người, như về New England, chúng ta không gặp các bài thơ có chủ đề ngoài Việt Nam -- hình như tuyển tập NBC chỉ có hai bài thơ có không gian ở quê người. Có thể gợi nhớ để so sánh rằng vào giữa thế kỷ 20, nhiều thi sĩ Việt Nam ưa làm thơ về “mùa thu Paris” hay “người em tóc vàng sợi nhỏ” hay những chủ đề tương tự nơi xứ người. Nhưng lạ rằng Nguyễn Bá Chung, với cơ duyên nửa thế kỷ định cư ở Hoa Kỳ vẫn làm thơ phần đông là chủ đề quê nhà và những ngôi chùa Việt Nam trong trí nhớ.
 
blank 

Như chúng ta thấy trong bài thơ nhan đề “Người đến bạc đầu” có ghi chú nơi sáng tác là  “Thiền viện Goenka, Shelburne, Massachusetts.” Bài thơ lục bát dài 8 dòng nói về cảm thọ vô thường (bạc đầu, lá thổi, cỏ vàng tuổi thơ, theo bờ gió bay, bão rừng thổi ngược, sóng mộng…) trong khi chỉ ra Khổ đế trong dòng chuyển biến thời gian đó (thổi ngược, ray rứt, ôm lấy khổ đau, bạc đầu nhớ nhung…). Chúng ta cũng nhớ rằng phương pháp Thiền của ngài Goenka là ban đầu niệm hơi thở rồi tới niệm cảm thọ. Bài thơ này của Nguyễn Bá Chung như sau:

 

Bao mùa lá thổi về đây

Sông sâu con chữ, thuyền đầy nắng mưa

Cỏ vàng thung lũng tuổi thơ

Ngàn hơi thở đã theo bờ gió bay

Bão rừng thổi ngược ngàn cây

Nhặt khoan sóng mộng chiều ray rứt chiều

Nắng về ôm lấy khổ đau

Xin ngồi cho đến bạc đầu nhớ nhung.

 

Có thể thắc mắc về câu cuối: có vẻ rằng trong khi nhà thơ Nguyễn Bá Chung muốn ngồi cho đến bạc đầu, nhưng trường Thiền Goenka theo truyền thống chỉ cho ngồi 10 ngày một khóa là đóng cửa. Thì làm sao mà ngồi cho tới bạc đầu. Thêm nữa, đã ngồi thiền mà lại nhớ nhung thì hằn là lãng mạn không nên. Thế là nhà thơ lại lên đường tiếp. Do vậy, mới phải nói “nắng về ôm lấy khổ đau” – một hình tượng rất Thiền, vì nắng là ánh sáng trí tuệ, ôm lấy khổ đau để nhận ra Khổ đế…
 

Khi đọc Mục Lục, chúng ta sẽ thấy khung trời thơ mộng của NBC cũng hiện ra trên nhan đề các bài thơ: Nguyễn Du, Bùi Giáng, Như Cánh Vạc Bay, La hán Chùa Tây, Đi Chùa Hương, Núi Thị Vải, Tự Ngã I & II, Lễ hội Côn Sơn I & II, Qua tháp Trần Nhân Tông, Gặp một sư trên chùa Trúc Lâm, Viên Chiếu thiền viện, Đêm ngồi đọc kinh, Ải Chi Lăng, Cử Không, Nguyễn Bính, Động Huyền Không, Đến Thiên Trù nhớ sư Viên Giác, Cuộc tái ngộ của hai Thiền sư, Đọc thơ Lý Trần, Trúc Lâm Yên Tử, Công án, Đêm nằm mơ Bùi Giáng, Thiền hành trên quê hương…
 

Tất cả các nhan đề thơ đó cho chúng ta hình dung tác giả hẳn phải là một nhà sư. Vậy mà không phải. Đó là thơ của học giả Nguyễn Bá Chung. Trong thể loại, cũng là ảnh hưởng từ nền văn học hậu bán thế kỷ 20 tại Việt Nam, đa số là thơ lục bát, thơ tám chữ, thơ bảy chữ, thơ năm chữ… Nghĩa là, chúng ta sẽ thấy trên da thịt máu xương nhà thơ Nguyễn Bá Chung là tiếng chuông chùa Lý Trần vang vọng trên các dòng lục bát, nơi đó đã từng nuôi lớn những Nguyễn Du, Bùi Giáng…
 

Trong văn học Việt Nam, có một số nhà thơ nổi tiếng với các bài tự trào, như Nguyễn Khuyến, Phạm Thái, Tú Xương… Mỗi nhà thơ tự trào vẫn có một kiểu cách riêng, đóng khung trong môi trường lịch sử riêng. Trong khi Nguyễn Khuyến tự trào trong cương vị một quan lớn bị giáng chức, rồi từ quan về quê ở ẩn trong thời Pháp lấn quyền vua, với “Mở miệng nói ra gàn bát sách, Mềm môi chén mãi tít cung thang.” Tú Xương lại tự trào khi lang thang nơi chốn bụi đời thành thị giữa lúc giao thời với “Lọng cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê phết đất mụ đầm ra.” Hay nơi thế kỷ 18, nhà thơ Phạm Thái, một thời ẩn vào chùa Tiêu Sơn với đạo hiệu Phổ Chiếu Thiền sư, tự trào sau khi cả gia tộc phù Lê thất bại và bị Tây Sơn đánh cho tan tác với “Năm bảy bài thơ ngâm lếu láo, Một vài câu kệ tụng a ê.”. Nhưng Nguyễn Bá Chung khác hẳn, từ nơi rất xa quê nhà, anh tự trào vì tự tin đã hiểu hết giáo lý nhà Phật nhưng vẫn chưa sống cho trọn.
 

Bài thơ Tự Trào I của Nguyễn Bá Chung với thể thơ thất ngôn, gồm 12 câu trong ba đoạn, nơi trang 33, đã hiển lộ tấm lòng này.

 

Tự trào I

Sống chết chi mà chạy ngược xuôi

Sách vài trăm quyển chữ như rươi

Chân không diệu pháp đây rành hết

Chỉ cái phiền là nhấp nhổm thôi

 

Mới hay nói dễ làm không dễ

Đầu vượn chân dài vạn nỗi tai

Mỏi mòn đôi gót bờ hư thực

Nửa cuộc đời sai vẫn cứ sai

 

Lên xuống thấp cao ngàn ngõ cụt

Ra vào khấp khểnh một đường ngay

Nẻo về không lối hoa dâng bụt

Bát ngát hương rừng một nhánh mai.

 

 Tuy nhiên, tới bài Tự Trào II, cùng thể thơ và độ dài, là một bầu không khí khác hẳn, như dường Nguyễn Bá Chung ra sức ngồi kiết già hoài mà vẫn bất như ý, tới khi tự xem như bại trận, chẳng chờ chẳng đợi gì nữa, thì hốt nhiên “không mong mà lại đươc,” và khi “một cơn gió thổi bay ngàn lá” thì hiển lộ ra màu trăng (trí tuệ) sáng rực giữa sân. Bài thơ này nơi trang 34 như sau.

 

Tự trào II

Dẫu học bao lâu đầu vẫn đặc

Tâm như quạt gió bụi tung trời

Ngồi bệt kiết già dăm bảy chốc

Một đàn kiến lửa kéo ra chơi

 

Thôi ừ bại trận, thôi không ước

Nhấp nhổm chi cho khổ kiếp người

Thôi cứ cho như là chẳng biết

Chẳng chờ chẳng đợi chẳng lôi thôi

 

Có phải không mong mà lại được

Cho nên chờ đợi hóa ra lầm

Một cơng ió thổi bay ngàn lá

Vàng cả màu trăng sáng giữa sân.

 

Tất cả các bài thơ Nguyễn Bá Chung làm có liên hệ tới Bùi Giáng đều hay dị thường, rất hiếm gặp. Đó là bài “Bùi Giáng” nơi trang 46-48, bài    “Nhớ Bùi Giáng” trang 215-217, bài “Trung niên thi sỹ” trang 268, bài “Đêm nằm mơ Bùi Giáng” trang 314.
 

Như trong bài thơ “Bùi Giáng” trang 46-48, làm theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, dài 36 câu. Nơi đây, chúng ta trích 8 dòng giữa bài, có nhắc tới hình ảnh “Vạn Hạnh” chỉ cho Đại Học Vạn Hạnh, nơi từng là chỗ nhà thơ Bùi Giáng cư ngụ và lui tới thường xuyên, và “Kim Cương” chỉ tới nữ nghệ sĩ Kim Cương, một bạn thân của nhà thơ họ Bùi. Cũng nhắc tới “Trang Phương” gợi nhớ tới bài thơ tình của Bùi Giáng nhan đề “Xuân thu trang phương” trong tập Mưa Nguồn – trong đó, trang phương là chỉ cho sự hiện diện của người nữ, với chữ trang là làm đẹp dung nhan, và chữ phương là hương thơm đức hạnh. Chữ “Thanh hiên” là hiệu của nhà thơ Nguyễn Du. Trích như sau.

 

Kinh Vạn Hạnh pha bao màu nắng

Gió Kim Cương trải mấy lần vân

Giờ mê hoặc người ngồi dịch sách

Bàng hoàng nghe gió lộng đầy sân?

 

Câu thơ cũ người đề tặng cỏ

Tháng ngày xanh người mải chăn dê

Trời Trang Phương đến giờ mở ngõ

Cõi thanh hiên người có đi về?

 

Để hiểu tất cả các điển tích trong thơ Nguyễn Bá Chung hiển nhiên là cần phải có kiến thức về một thời văn học miền Nam. Tuy nhiên, nếu tách ra khỏi các chữ đầy điển tích đó, hẳn là không có được một bầu không khí gợi nhớ tới Bùi Giáng, Nguyễn Du, Vạn Hạnh, Kim Cương…
 

Cũng hay dị thường là bài thơ “Nhớ Bùi Giáng” với bảy đoạn thơ tám chữ. Bầu không khí trong thơ bảy chữ trong bài vừa dẫn mấy đoạn trên cũng chuyển thành một phương trời rất lạ trong thể thơ tám chữ cùng chủ đề Bùi Giáng. Nếu Nguyễn Bá Chung không hít thở tắm gội trong thơ Bùi Giáng, hẳn là không viết nổi những dòng thơ chở được những thơ mộng thần sầu quỷ khốc như thế. Trong bài “Nhớ Bùi Giáng” ở trang 215-217, có nhắc chuyện Bùi Giáng một thời chăn dê với “con dê choai hoa cà tía con hươu” và thơ họ Bùi đôi khi tặng “con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại” – nơi đây, chúng ta trích ba đoạn giữa như sau (trong thơ, Nguyễn Bá Chung gọi Bùi Giáng là “người”).

 

Thơ người đó – một khoảng trời chợt hẫng

Rơi về đâu – phố thị sa mù xa

Đường lục tỉnh ai có buồn cố quận

Mơ mòng chi – dê trắng, kiến không nhà

 

Người yêu cả cuộc đời – buồn vui lẫn

Yêu say cuồng, yêu dại dột u mê

Người bỏ hết để một lần được đứng

Nhìn dáng em trong cổ mộng đi về

 

Người có khóc trước cuộc đời u uẩn

Thương thời gian tàn lụn giữa thanh hiên

Dù có gọi nhưng lời không đủ gọi

Nên đã đành… tan tác gió qua miền

 

Có một điểm hết sức kinh ngạc: Nguyễn Bá Chung không phải là người ngồi trong cánh cổng nhà chùa, cũng không trực tiếp là học trò của các Thiền sư nổi tiếng được nhắc tới trong thi tập, nhưng tấm lòng thiết tha với Thiền học Việt Nam hiển lộ rất minh bạch trong thơ anh. Bài thơ “Thiền hành trên quê hương” nơi trang 315-317, sáng tác vào tháng 5/2005, gồm chín đoạn thất ngôn tứ tuyệt, ghi lại niềm vui sướng vô bờ khi nhìn thấy Thiền sư Thích Nhất Hạnh về thiền hành trên nhiều nẻo đường quê hương để “thắp niềm tin trên ngàn gẫy đổ” và để “đơm cội nguồn đất mẹ phù sa.” Nơi đây, chúng ta trích ba đoạn thơ Nguyễn Bá Chung ở trang 315-316.

 

Bà cụ già rưng rưng mắt lệ

Bao năm rồi sống lại phút giây

Chú thiền sinh bàng hoàng tỉnh thức

Pháp thoại nào xanh gió xanh cây

 

Cũng pháp ấy – lời tân niên kỷ

Cũng thiền ngồi – hùng tráng uy nghi

Cũng thiền lạy – một thời vô úy

Cũng thiền hành – trời đất cùng đi

 

Giữa quê hương người về chia sẻ

Bao tháng năm gieo pháp xứ người

Nối lại truyền thông từng thế hệ

Ươm tình thâm – hoa trái cuộc đời…

 

Tấm lòng thiết tha của Nguyễn Bá Chung với Thiền học quê nhà hiển lộ rõ trong bài thơ “Cuộc tái ngộ của hai Thiền sư” nơi trang 197-199, gồm sáu đoạn thơ thất ngôn tứ tuyệt, nói về Thiền sư Thích Nhất Hạnh sau nhiều thập niên xa quê nhà đã tới Đà Lạt thăm Thiền sư Thích Thanh Từ. Hai nhà sư, hai khuynh hướng Thiền. Trong khi Thầy Nhất Hạnh lập ra Thiền phái Làng Mai, với cách đơn giản hóa pháp Chánh niệm cho dễ truyền pháp sang phương Tây, Thầy Thanh Từ nơi quê nhà ra sức hồi phục dòng Thiền Trúc Lâm. Trong bài thơ này, Nguyễn Bá Chung dùng chữ Phương Bối để chỉ Thầy Nhất Hạnh, vì Thầy đã thiết lập thiền thất Phương Bối Am ở Bảo Lộc khoảng thập niên 1960s để tìm con đường hoằng pháp qua Thiền. Và thi sĩ dùng chữ Yên Tử để chỉ Thầy Thanh Từ vì công trình hồi phục dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử của các vua nhà Trần. Bài thơ “Cuộc tái ngộ của hai Thiền sư” do Nguyễn Bá Chung sáng tác ngày 16 tháng 6/2008 ghi rõ niềm tin của thi sĩ rằng Thiền tập sẽ “cứu muôn dân” tại quê nhà. Bốn đoạn đầu trong bài thơ này trích như sau.

 

Từ bốn phương trời người trở lại

Đường xa bụi bám cỏ giăng đầy

Giấc mộng chuyển trời Phương Bối nguyện

Yên Tử quê nhà mây trắng bay

 

Thế giới loạn cuồng bom đạn đổ

Thân người cháy rụi lửa hờn cao

Chén trà đạo vị - bao năm – nhắp

Giọt nước cành dương sóng sánh trào…

 

Tay lại nắm tay hồn đất nước

Mái chùa lưu lạc đã bao phương

Tìm về đất mẹ dâng hương tổ

Phổ độ quần sinh đoạn đoạn trường

 

Đại Lào ngõ tịnh bao ngày tháng

Khói đỏ thôn nghèo đất nước phân

Phương Bối ai ngồi trong tịch mặc

Đâu con đường thoát cứu muôn dân…

 

Mỗi bài thơ của Nguyễn Bá Chung luôn luôn như dường là một đoạn trong hành trình trở lại quê nhà, nơi nhà thơ nhìn thấy Phật giáo như những hình tượng hộ trì cho dân tộc Việt. Những xúc động của nhà thơ họ Nguyễn hiện rõ trên từng trang thơ, rất mực trân trọng khi nhìn lại vết tích cổ sử. Như bài thơ “La Hán chùa Tây” nơi trang 81-83 với bảy đoạn thơ thất ngôn tứ tuyệt, ghi hình ảnh tượng đứng mãi trên dòng lịch sử trôi chảy vô thường của dân tộc. Trích ba đoạn cuối bài như sau.

 

Tượng nhìn tượng đứng yên như tạc

Ba trăm năm loạn chẳng hề chi

Đầu vẫn rạng quanh quầng trăng sáng

Gió bụi đồi tây có quản gì

 

Văn hóa bao đời dồn kết lại

Tinh anh phát tiết tự vô hình

Người của muôn năm thần đứng trụ

Như hét, như quần cõi tử sinh

 

Pháp còn bỏ huống chi tà pháp

Tượng còn đây, người tượng chốn nao?

La Hán đứng mắt trừng không hỏi

Dáng đứng vô ngôn lộng gió chiều.

 

Tuyển tập thơ Nguyễn Bá Chung còn rất nhiều điều cần nói tới. Bên cạnh những dòng thơ Thiền tràn ngập và xuất sắc, vẫn còn những bài thơ tình lãng mạn, thơ mộng và nuối tiếc. Như bài thơ “Tiếng xưa” trang 97, chỉ có hai đoạn thơ ngũ ngôn tứ tuyệt nhưng chở cả một khung trời kỷ niệm.

 

Nhớ lời ai năm trước

Nhớ hình ai trong sương

Ra đi mờ lửa loạn

Từ cỏ dại lên đường.

 

Hôm nay nhìn mây trắng

Ôi nhớ tiếng ai cười

Giật mình bên ngõ quạnh

Một chiếc lá đang rơi.

 

Đọc kỹ, sẽ thấy tập thơ có lỗi kỹ thuật: in trùng bài thơ “New England mùa thu” ở trang 244 và rồi in lại ở trang 279. Tương tự, bài thơ “Chùa quê” in ở trang 72 và 73 rồi in lại ở trang 128 và 129. Chúng ta dễ hiểu tại sao xảy ra chuyện in trùng, chỉ vì tác giả cư trú ở Hoa Kỳ trong khi biên tập và nhà in ở Việt Nam. Thi tập “Thơ Nguyễn Bá Chung tuyển tập” do Nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành.
 

Tác giả Nguyễn Bá Chung sinh năm 1949 tại Hải Dương, học trung học tại Sài Gòn. Năm 1971 được học bổng du học hậu đại học và định cư tại Hoa Kỳ từ đó đến nay. Ông là chuyên gia giáo dục của viện William Joiner thuộc đại học Masachusetts, Boston; từng là giám đốc chương trình nghiên cứu Rockefelle; giảng viên đại học Masachusetts; điều phối viên chương trình Học hè tại Huế và chương trình trao đổi văn học Mỹ - Việt Nam.
 

Nguyễn Bá Chung là nhà thơ, dịch giả, nhà bình luận văn chương. Ông là đồng dịch giả tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu  và cũng là đồng chủ biên 12 tuyển tập song ngữ của Văn học Việt Nam – Moutain River. Nhà thơ Nguyễn Bá Chung có nhiều bài viết trên các chương trình TV và các tạp chí: TV Vietnam Forum, New Asia Review, Boston Review, Compost, Nation, Manoa, Vietnam Reflection (PBS TV History), Cyphers, First Pages…
 

Ông là tác giả của 4 tập thơ: Mưa ngàn (1996), Ngõ hạnh (1997), Tuổi ngàn năm đến từ buổi sơ sinh (1999), Nguồn (2009) và Thơ Nguyễn Bá Chung tuyển tập vừa ra đời tháng 10.2022. 

Các công trình nổi bật về Phật giáo của Nguyễn Bá Chung là: Ly Tran Zen Poems (nxb Văn Hóa Sài Gòn, 2005, tái bản 6/2007); Le Nguyen Zen Poems (nxb Hội Nhà Văn 6/2019).

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng bảy khép lại theo tuần hoàn của thời gian và không gian, chỉ nắng nóng mùa hè là chưa thay đồi, vẫn hơn trăm độ F từng ngày làm đời sống vốn khó thêm khổ cho người lao động. Tan hãng, mở máy lạnh trong xe hết mức vẫn không thấy giảm được cái nóng trong xe như thiêu đốt. Nhưng nhìn những người Mễ đang làm công việc sửa đường dưới cái nắng gay gắt thấy chạnh lòng. Hoàn cảnh mỗi người mỗi khác, chỉ cầu mong ơn trên thương xót họ, và tạ ơn trên về phần mình. Tuy việc làm có nhiều điều không ưng vì công việc không đúng sở thích nhưng dù sao cũng làm việc nhẹ nhàng trong điều kiện có máy điều hoà không khí, lương bổng và quyền lợi không cao nhưng đủ sống, đủ trả tiền nhà, điện, nước để có một chỗ về sau ngày làm việc…
Thái độ quyết liệt và sự lựa chọn can trường của Lê Anh Hùng, cũng như của những tù nhân lương tâm đồng hành, khiến cho vợ con cùng thân nhân của họ phải chịu rất nhiều thiệt thòi và phiền toái. Nhưng nếu không có sự hy sinh cao cả như thế thì dân Việt biết trông vào đâu để vẫn còn có thể giữ được chút niềm tin về tương lai của dân tộc, và đất nước này!
Đã có người trúng lô độc đắc Mega Millions trị giá hơn 1.3 tỷ đô đêm Thứ Sáu 29/7/2022. Ban đầu ước tính độc đắc là $1.28 tỷ đô, nhưng lượng vé số bán ra tăng vọt, nên độc đắc tới hơn 1.3 tỷ đô. Như thế, kỳ quay xổ số Mega Millions kế tiếp sẽ diễn ra vào thứ Ba và giải độc đắc sẽ là 20 triệu đô la.
một bức tranh thiếu nữ của họa sĩ Đinh Cường, 2 tấm ảnh ghi lại hai cuộc gặp gỡ của họa sĩ Đinh Cường với bằng hữu vào năm 2012 vq2 2015, và 1 bức ảnh họa sĩ Trương Vũ đang vẽ tranh bên dòng Potomac (2016)
EUROPE Vào ngày thứ Sáu 29 tháng 7 năm 2022, Tây Ban Nha đã báo cáo cái chết đầu tiên được xác nhận do bệnh đậu mùa khỉ. Đây cũng là trường hợp tử vong đầu tiên ở châu Âu vì căn bệnh này, và là trường hợp thứ hai ngoài Châu Phi, trước đó cũng vào ngày thứ Sáu, Brazil cũng đã báo cáo một trường hợp tử vong, theo báo DN ngày 29 tháng 7 năm 2022, Thụy điển.
✱ US.ACMH: Hai nhà lãnh đạo tôn giáo Trí Quang và Tâm Châu đều lên tiếng chống tham nhũng, hoạt động kém hiệu quả của chính phủ,và sự tồn tại của chế độ lệ thuộc vào ảnh hưởng của Mỹ. ✱ Các tướng lĩnh TQLC Hoa Kỳ trong Quân đoàn I ca ngợi sự hợp tác của Thi và khen ngợi sự tận tâm của ông ta đối với công cuộc bình định. ✱ Các tướng lĩnh Nam Việt Nam đã thông báo ngắn gọn cho Lodge và Westmoreland trước cuộc hành quân và được họ chấp thuận. Westmoreland cung cấp máy bay không quân Hoa Kỳ chuyên chở quân đội chính phủ ✱ Westmoreland không muốn quân Mỹ can thiệp, Ông ra lệnh tạm thời di tản người Mỹ khỏi Huế và Đà Nẵng, cấm tất cả quân nhân Mỹ rời doanh trại, [và] ngừng tất cả các hoạt động cho đến khi tình hình lắng xuống. ✱ Với sự chấp thuận của Tướng Westmoreland, Walt với một đoàn xe của Lực lượng TQLC Hoa Kỳ đã ngăn chặn lực lượng của Yêu tiến vào căn cứ không quân Mỹ và cử Đại tá Chaisson đứng ra đàm phán…
Bản đồ thứ ba về thế giới thời hậu Chiến tranh Lạnh bắt nguồn từ cái thường được gọi là “Lý thuyết Hiện thực” (Realist Theory) về quan hệ quốc tế. Theo lý thuyết này, các quốc gia thực sự là chủ thể quan trọng duy nhất trong các vấn đề thế giới, mối quan hệ giữa các quốc gia là một mối quan hệ hỗn loạn (anarchy), và do đó để đảm bảo sự tồn tại và an ninh của họ, các quốc gia luôn cố gắng tối đa hóa quyền lực của mình... Một cái nhìn viễn kiến về mối hiểm họa xung đột giữa các quốc gia trên thế giới, của nhà Chính trị học lừng danh Samuel P. Huntington, do Bác sĩ Hồ Văn Hiền chuyển ngữ và chú thích. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Trong vấn đề về dầu mỏ Vs. môi trường cũng cho thấy tính dài hạn và ngắn hạn của các chính đảng Hoa Kỳ. Những vị dân cử chọn dầu mỏ xem nhẹ môi trường là khuynh hướng tầm nhìn ngắn hạn. Ngược lại những chính khách chọn bảo vệ môi trường và hạn chế dầu mỏ cho thấy tầm nhìn dài hạn trong chính sách.
Hồ Xuân Hương có một tập thơ tên gọi Hương Đình Cổ Nguyệt thi tập. Năm 1863 đại thần triều đình Huế Trương Đăng Quế, trong bài tựa cho Diệu Liên thi tập của Mai Am nữ sĩ, tức Lại Đức công chúa, đã sánh Mai Am với Hồ Xuân Hương và Phạm Lam Anh tác giả tập thơ Chiến cổ đường. Hai người thơ hay nhất nước Nam. Theo tôi tập thơ này không phải là tập hợp những bài thơ truyền khẩu do Antony Landes mướn Lê Quý và Nguyễn Văn Đại đến làng Nghi Tàm sao chép trước năm 1892, từ những sưu tập của hai người con Tử Minh tức Cả Tân,
Câu chuyện y hệt như cổ tích trong Thiền sử, nhưng là sự thật đã xảy ra tại California. Ba chị em gái cùng đi tìm thầy học Thiền, đi xa ngàn dặm, cùng xuất gia, cùng học một vị Thầy nổi tiếng, người đã từng rời Hoa Kỳ để sang Nhật Bản nhiều năm học Thiền. Rồi ba chị em về mở chùa ở San Diego, mười năm sau dọn về Quận Cam mở chùa, hoằng pháp Thiền Tông. Đó là ba vị Ni sư Chân Như, Chân Thiền và Châu Diệu. Thiền Viện Sùng Nghiêm hôm Chủ Nhật 17/7/2022 đã tổ chức Lễ Tri Ân tại Crystal Restaurant, 12100 Beach Blvd, Stanton, với nội dung: Ni sư Chân Thiền về hưu, và phát hành sách Kỷ Yếu Nén Tâm Hương của Thiền Viện Sùng Nghiêm.
Khi bạn bước vào một căn nhà, điều gì gây ấn tượng? Đối với thế hệ tiền-kỹ thuật số, bước vào phòng sinh hoạt gia đình của họ người ta thường thấy kệ sách cao lên tận trần nhà, đôi khi phải bắt thang mới lấy được sách trên cao. Bây giờ, với thế hệ @ hay thế hệ gmail, điều đầu tiên đập vào mắt là màn ảnh ti-vi to, các trang bị kỹ thuật hiện đại, và tủ sách hình như đã trở thành loài có nguy cơ tuyệt chủng. Thật vậy, với xu hướng các thiết bị điện tử và kỹ thuật số đang lấn chiếm mọi sinh hoạt đời sống, khả năng đọc sách cũng như cách thức đọc gần đây đã thay đổi đáng kể. Nghiên cứu cho thấy rằng việc sử dụng rộng rãi công nghệ kỹ thuật số đang làm xói mòn khả năng đọc sâu, sự chú ý liên tục, trí nhớ cũng như khả năng nhận thức chung của chúng ta. Người đọc thời đại điện tử dường như không còn đủ kiên nhẫn đọc những cuốn sách dày hay đọc bài dài, thiếu khả năng đọc sâu, thiếu tập trung, và thường thích đọc những mẩu vụn lượm lặt trên các trang mạng xã hội.
Nghiên cứu mới nhất cho thấy có bằng chứng rằng trầm cảm không phải là do “mất cân bằng hóa học” trong não – cụ thể là sự mất cân bằng của một chất hóa học gọi là serotonin. Trong suốt ba thập niên, mọi người đã bị “nhồi sọ” rằng trầm cảm là do “mất cân bằng hóa học” trong não – cụ thể là sự mất cân bằng của một chất hóa học gọi là serotonin. Tuy nhiên, nghiên cứu mới nhất của Joanna Moncrieff (Giáo Sư lâm sàng cao cấp, Khoa tâm thần học xã hội và phê bình, UCL) và Mark Horowitz (Nghiên cứu lâm sàng về Tâm thần học, UCL) cho thấy có bằng chứng không hỗ trợ điều đó. Nghiên cứu được đăng trên trang TheConversation.
Nhớ anh bạn trẻ đã qua đời vì bạo bệnh hôm trước dịch covid-19. Nhớ cứ bước vào tháng bảy, anh thường diễn tả cái nắng và cái nóng của mùa hè Texas với từ “tan chảy”, nắng cũng nắng tan chảy mà nóng cũng nóng tan chảy. Không riêng gì tôi mà nhiều anh em bạn nghe hơi khó chịu với từ tan chảy vì dị ứng với từ ngữ trong nước bây giờ thường nói quá, quá cả phép thậm xưng trong văn học dân gian như “con rận bằng con ba ba/ đêm nằm nó ngáy cả nhà thất kinh”. Người trong nước bây giờ ăn ngon cũng ngon tới tan chảy, nghe nhạc cũng nghe tới tan chảy với giọng hát ai đó, ra đường gặp gái đẹp cũng đẹp tan chảy… chỉ có đường cống thoát nước ở Sài gòn là không tan chảy khi trời mưa nên ngập cả Sài gòn. Còn lại thứ gì không tan chảy được theo từ ngữ xã hội chủ nghĩa thì dùng từ khó hiểu, từ ngữ càng âm u càng nổi bật “đẳng cấp” xã hội chủ nghĩa đang thịnh từ “a đù”.
HOA KỲ – Hai nghiên cứu mới cung cấp thêm bằng chứng cho thấy đại dịch COVID-19 thật sự bắt nguồn từ một chợ bán động vật sống ở Vũ Hán, Trung Quốc – củng cố thêm cho giả thuyết rằng vi rút xuất hiện trong tự nhiên chứ không phải thoát ra từ phòng thí nghiệm Trung Quốc, theo trang APnews đưa tin ngày Thứ Ba, 26 tháng 7 năm 2022.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.