Hôm nay,  

Đọc Thơ Nguyễn Bá Chung: Một cõi thơ thiền tịch mặc

27/12/202207:52:00(Xem: 5441)
blank 

Đọc Thơ Nguyễn Bá Chung:

Một cõi thơ thiền tịch mặc

 

Phan Tấn Hải

 

Bất ngờ, tôi mới nhận ra rằng GS Nguyễn Bá Chung cũng là một nhà thơ. Bởi vì một thành kiến tôi có từ lâu, một học giả thường không làm thơ. Trước giờ tôi vẫn nghĩ rằng GS Nguyễn Bá Chung là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu, và là người dịch sang tiếng Anh nhiều bài thơ thời Lý, Trần và thời Lê, Nguyễn --- và đó là những gì tôi từng chú ý nhất, khi đọc hai bản Anh dịch của họ Nguyễn: tập “Ly Tran Zen Poems” (nxb Văn Hóa Sài Gòn, 2005, tái bản 6/2007) và “Le Nguyen Zen Poems” (nxb Hội Nhà Văn 6/2019). Lúc đó, tôi không chú tâm về những sách khác do GS Nguyễn Bá Chung (NBC) dịch, như tiểu thuyết, truyện, thơ… Và rồi một bất ngờ, khi tôi khám phá ra Nguyễn Bá Chung cũng là một nhà thơ rất mực lãng đãng Thiền học, thơ mộng tột vời.
 

Tập thơ mới của NBC nhan đề “Thơ Nguyễn Bá Chung tuyển tập” vừa do nxb Hội Nhà Văn ấn hành vào tháng 10/2022 cho độc giả thấy một cuộc đời khác, một hình ảnh khác về NBC. Hầu hết các bài thơ trong tuyển tập không ghi ngày tháng, nhưng hai bài ‘Lễ hội Côn Sơn I, II” ghi nơi sáng tác là “Chùa Hun, Tháp Huyền Quang, Đền Nguyễn Trãi – Côn Sơn 96” và bài “Qua tháp Trần Nhân Tông” ghi là “Núi Yên Tử 1996” --- nghĩa là, có những bài thơ từ rất nhiều thập niên xa xưa.
 

Tập thơ dày 320 trang, mở đầu tập là lời giới thiệu của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (NQT) nhan đề “Nguyễn Bá Chung và một con đường.” Trong đó, theo Nguyễn Quang Thiều, NBC là một tổng hợp tuyệt vời của tinh thần Phật giáo và văn hóa Việt. Và rồi NQT trích dẫn 4 câu thơ của NBC:

 

Thành quách xa xưa hồn ngỡ lạc

Tiếng chuông chùa cổ bóng nào lay

Người về hỏi chuyện vườn quê vắng

Cỏ đã xanh màu, đất đã thay…

 

Tuyển tập thơ của NBC gồm 206 bài thơ, chia làm 5 phần: Phần I Mưa Ngàn, Phần II Ngõ Hạnh, Phần III Tuổi Ngàn Năm, Phần IV Nguồn, Phần V 20 bài thơ rời.
 

Hầu hết thơ của NBC là về những cảm xúc rất Việt Nam. Trừ vài bài thơ về xứ người, như về New England, chúng ta không gặp các bài thơ có chủ đề ngoài Việt Nam -- hình như tuyển tập NBC chỉ có hai bài thơ có không gian ở quê người. Có thể gợi nhớ để so sánh rằng vào giữa thế kỷ 20, nhiều thi sĩ Việt Nam ưa làm thơ về “mùa thu Paris” hay “người em tóc vàng sợi nhỏ” hay những chủ đề tương tự nơi xứ người. Nhưng lạ rằng Nguyễn Bá Chung, với cơ duyên nửa thế kỷ định cư ở Hoa Kỳ vẫn làm thơ phần đông là chủ đề quê nhà và những ngôi chùa Việt Nam trong trí nhớ.
 
blank 

Như chúng ta thấy trong bài thơ nhan đề “Người đến bạc đầu” có ghi chú nơi sáng tác là  “Thiền viện Goenka, Shelburne, Massachusetts.” Bài thơ lục bát dài 8 dòng nói về cảm thọ vô thường (bạc đầu, lá thổi, cỏ vàng tuổi thơ, theo bờ gió bay, bão rừng thổi ngược, sóng mộng…) trong khi chỉ ra Khổ đế trong dòng chuyển biến thời gian đó (thổi ngược, ray rứt, ôm lấy khổ đau, bạc đầu nhớ nhung…). Chúng ta cũng nhớ rằng phương pháp Thiền của ngài Goenka là ban đầu niệm hơi thở rồi tới niệm cảm thọ. Bài thơ này của Nguyễn Bá Chung như sau:

 

Bao mùa lá thổi về đây

Sông sâu con chữ, thuyền đầy nắng mưa

Cỏ vàng thung lũng tuổi thơ

Ngàn hơi thở đã theo bờ gió bay

Bão rừng thổi ngược ngàn cây

Nhặt khoan sóng mộng chiều ray rứt chiều

Nắng về ôm lấy khổ đau

Xin ngồi cho đến bạc đầu nhớ nhung.

 

Có thể thắc mắc về câu cuối: có vẻ rằng trong khi nhà thơ Nguyễn Bá Chung muốn ngồi cho đến bạc đầu, nhưng trường Thiền Goenka theo truyền thống chỉ cho ngồi 10 ngày một khóa là đóng cửa. Thì làm sao mà ngồi cho tới bạc đầu. Thêm nữa, đã ngồi thiền mà lại nhớ nhung thì hằn là lãng mạn không nên. Thế là nhà thơ lại lên đường tiếp. Do vậy, mới phải nói “nắng về ôm lấy khổ đau” – một hình tượng rất Thiền, vì nắng là ánh sáng trí tuệ, ôm lấy khổ đau để nhận ra Khổ đế…
 

Khi đọc Mục Lục, chúng ta sẽ thấy khung trời thơ mộng của NBC cũng hiện ra trên nhan đề các bài thơ: Nguyễn Du, Bùi Giáng, Như Cánh Vạc Bay, La hán Chùa Tây, Đi Chùa Hương, Núi Thị Vải, Tự Ngã I & II, Lễ hội Côn Sơn I & II, Qua tháp Trần Nhân Tông, Gặp một sư trên chùa Trúc Lâm, Viên Chiếu thiền viện, Đêm ngồi đọc kinh, Ải Chi Lăng, Cử Không, Nguyễn Bính, Động Huyền Không, Đến Thiên Trù nhớ sư Viên Giác, Cuộc tái ngộ của hai Thiền sư, Đọc thơ Lý Trần, Trúc Lâm Yên Tử, Công án, Đêm nằm mơ Bùi Giáng, Thiền hành trên quê hương…
 

Tất cả các nhan đề thơ đó cho chúng ta hình dung tác giả hẳn phải là một nhà sư. Vậy mà không phải. Đó là thơ của học giả Nguyễn Bá Chung. Trong thể loại, cũng là ảnh hưởng từ nền văn học hậu bán thế kỷ 20 tại Việt Nam, đa số là thơ lục bát, thơ tám chữ, thơ bảy chữ, thơ năm chữ… Nghĩa là, chúng ta sẽ thấy trên da thịt máu xương nhà thơ Nguyễn Bá Chung là tiếng chuông chùa Lý Trần vang vọng trên các dòng lục bát, nơi đó đã từng nuôi lớn những Nguyễn Du, Bùi Giáng…
 

Trong văn học Việt Nam, có một số nhà thơ nổi tiếng với các bài tự trào, như Nguyễn Khuyến, Phạm Thái, Tú Xương… Mỗi nhà thơ tự trào vẫn có một kiểu cách riêng, đóng khung trong môi trường lịch sử riêng. Trong khi Nguyễn Khuyến tự trào trong cương vị một quan lớn bị giáng chức, rồi từ quan về quê ở ẩn trong thời Pháp lấn quyền vua, với “Mở miệng nói ra gàn bát sách, Mềm môi chén mãi tít cung thang.” Tú Xương lại tự trào khi lang thang nơi chốn bụi đời thành thị giữa lúc giao thời với “Lọng cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê phết đất mụ đầm ra.” Hay nơi thế kỷ 18, nhà thơ Phạm Thái, một thời ẩn vào chùa Tiêu Sơn với đạo hiệu Phổ Chiếu Thiền sư, tự trào sau khi cả gia tộc phù Lê thất bại và bị Tây Sơn đánh cho tan tác với “Năm bảy bài thơ ngâm lếu láo, Một vài câu kệ tụng a ê.”. Nhưng Nguyễn Bá Chung khác hẳn, từ nơi rất xa quê nhà, anh tự trào vì tự tin đã hiểu hết giáo lý nhà Phật nhưng vẫn chưa sống cho trọn.
 

Bài thơ Tự Trào I của Nguyễn Bá Chung với thể thơ thất ngôn, gồm 12 câu trong ba đoạn, nơi trang 33, đã hiển lộ tấm lòng này.

 

Tự trào I

Sống chết chi mà chạy ngược xuôi

Sách vài trăm quyển chữ như rươi

Chân không diệu pháp đây rành hết

Chỉ cái phiền là nhấp nhổm thôi

 

Mới hay nói dễ làm không dễ

Đầu vượn chân dài vạn nỗi tai

Mỏi mòn đôi gót bờ hư thực

Nửa cuộc đời sai vẫn cứ sai

 

Lên xuống thấp cao ngàn ngõ cụt

Ra vào khấp khểnh một đường ngay

Nẻo về không lối hoa dâng bụt

Bát ngát hương rừng một nhánh mai.

 

 Tuy nhiên, tới bài Tự Trào II, cùng thể thơ và độ dài, là một bầu không khí khác hẳn, như dường Nguyễn Bá Chung ra sức ngồi kiết già hoài mà vẫn bất như ý, tới khi tự xem như bại trận, chẳng chờ chẳng đợi gì nữa, thì hốt nhiên “không mong mà lại đươc,” và khi “một cơn gió thổi bay ngàn lá” thì hiển lộ ra màu trăng (trí tuệ) sáng rực giữa sân. Bài thơ này nơi trang 34 như sau.

 

Tự trào II

Dẫu học bao lâu đầu vẫn đặc

Tâm như quạt gió bụi tung trời

Ngồi bệt kiết già dăm bảy chốc

Một đàn kiến lửa kéo ra chơi

 

Thôi ừ bại trận, thôi không ước

Nhấp nhổm chi cho khổ kiếp người

Thôi cứ cho như là chẳng biết

Chẳng chờ chẳng đợi chẳng lôi thôi

 

Có phải không mong mà lại được

Cho nên chờ đợi hóa ra lầm

Một cơng ió thổi bay ngàn lá

Vàng cả màu trăng sáng giữa sân.

 

Tất cả các bài thơ Nguyễn Bá Chung làm có liên hệ tới Bùi Giáng đều hay dị thường, rất hiếm gặp. Đó là bài “Bùi Giáng” nơi trang 46-48, bài    “Nhớ Bùi Giáng” trang 215-217, bài “Trung niên thi sỹ” trang 268, bài “Đêm nằm mơ Bùi Giáng” trang 314.
 

Như trong bài thơ “Bùi Giáng” trang 46-48, làm theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, dài 36 câu. Nơi đây, chúng ta trích 8 dòng giữa bài, có nhắc tới hình ảnh “Vạn Hạnh” chỉ cho Đại Học Vạn Hạnh, nơi từng là chỗ nhà thơ Bùi Giáng cư ngụ và lui tới thường xuyên, và “Kim Cương” chỉ tới nữ nghệ sĩ Kim Cương, một bạn thân của nhà thơ họ Bùi. Cũng nhắc tới “Trang Phương” gợi nhớ tới bài thơ tình của Bùi Giáng nhan đề “Xuân thu trang phương” trong tập Mưa Nguồn – trong đó, trang phương là chỉ cho sự hiện diện của người nữ, với chữ trang là làm đẹp dung nhan, và chữ phương là hương thơm đức hạnh. Chữ “Thanh hiên” là hiệu của nhà thơ Nguyễn Du. Trích như sau.

 

Kinh Vạn Hạnh pha bao màu nắng

Gió Kim Cương trải mấy lần vân

Giờ mê hoặc người ngồi dịch sách

Bàng hoàng nghe gió lộng đầy sân?

 

Câu thơ cũ người đề tặng cỏ

Tháng ngày xanh người mải chăn dê

Trời Trang Phương đến giờ mở ngõ

Cõi thanh hiên người có đi về?

 

Để hiểu tất cả các điển tích trong thơ Nguyễn Bá Chung hiển nhiên là cần phải có kiến thức về một thời văn học miền Nam. Tuy nhiên, nếu tách ra khỏi các chữ đầy điển tích đó, hẳn là không có được một bầu không khí gợi nhớ tới Bùi Giáng, Nguyễn Du, Vạn Hạnh, Kim Cương…
 

Cũng hay dị thường là bài thơ “Nhớ Bùi Giáng” với bảy đoạn thơ tám chữ. Bầu không khí trong thơ bảy chữ trong bài vừa dẫn mấy đoạn trên cũng chuyển thành một phương trời rất lạ trong thể thơ tám chữ cùng chủ đề Bùi Giáng. Nếu Nguyễn Bá Chung không hít thở tắm gội trong thơ Bùi Giáng, hẳn là không viết nổi những dòng thơ chở được những thơ mộng thần sầu quỷ khốc như thế. Trong bài “Nhớ Bùi Giáng” ở trang 215-217, có nhắc chuyện Bùi Giáng một thời chăn dê với “con dê choai hoa cà tía con hươu” và thơ họ Bùi đôi khi tặng “con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại” – nơi đây, chúng ta trích ba đoạn giữa như sau (trong thơ, Nguyễn Bá Chung gọi Bùi Giáng là “người”).

 

Thơ người đó – một khoảng trời chợt hẫng

Rơi về đâu – phố thị sa mù xa

Đường lục tỉnh ai có buồn cố quận

Mơ mòng chi – dê trắng, kiến không nhà

 

Người yêu cả cuộc đời – buồn vui lẫn

Yêu say cuồng, yêu dại dột u mê

Người bỏ hết để một lần được đứng

Nhìn dáng em trong cổ mộng đi về

 

Người có khóc trước cuộc đời u uẩn

Thương thời gian tàn lụn giữa thanh hiên

Dù có gọi nhưng lời không đủ gọi

Nên đã đành… tan tác gió qua miền

 

Có một điểm hết sức kinh ngạc: Nguyễn Bá Chung không phải là người ngồi trong cánh cổng nhà chùa, cũng không trực tiếp là học trò của các Thiền sư nổi tiếng được nhắc tới trong thi tập, nhưng tấm lòng thiết tha với Thiền học Việt Nam hiển lộ rất minh bạch trong thơ anh. Bài thơ “Thiền hành trên quê hương” nơi trang 315-317, sáng tác vào tháng 5/2005, gồm chín đoạn thất ngôn tứ tuyệt, ghi lại niềm vui sướng vô bờ khi nhìn thấy Thiền sư Thích Nhất Hạnh về thiền hành trên nhiều nẻo đường quê hương để “thắp niềm tin trên ngàn gẫy đổ” và để “đơm cội nguồn đất mẹ phù sa.” Nơi đây, chúng ta trích ba đoạn thơ Nguyễn Bá Chung ở trang 315-316.

 

Bà cụ già rưng rưng mắt lệ

Bao năm rồi sống lại phút giây

Chú thiền sinh bàng hoàng tỉnh thức

Pháp thoại nào xanh gió xanh cây

 

Cũng pháp ấy – lời tân niên kỷ

Cũng thiền ngồi – hùng tráng uy nghi

Cũng thiền lạy – một thời vô úy

Cũng thiền hành – trời đất cùng đi

 

Giữa quê hương người về chia sẻ

Bao tháng năm gieo pháp xứ người

Nối lại truyền thông từng thế hệ

Ươm tình thâm – hoa trái cuộc đời…

 

Tấm lòng thiết tha của Nguyễn Bá Chung với Thiền học quê nhà hiển lộ rõ trong bài thơ “Cuộc tái ngộ của hai Thiền sư” nơi trang 197-199, gồm sáu đoạn thơ thất ngôn tứ tuyệt, nói về Thiền sư Thích Nhất Hạnh sau nhiều thập niên xa quê nhà đã tới Đà Lạt thăm Thiền sư Thích Thanh Từ. Hai nhà sư, hai khuynh hướng Thiền. Trong khi Thầy Nhất Hạnh lập ra Thiền phái Làng Mai, với cách đơn giản hóa pháp Chánh niệm cho dễ truyền pháp sang phương Tây, Thầy Thanh Từ nơi quê nhà ra sức hồi phục dòng Thiền Trúc Lâm. Trong bài thơ này, Nguyễn Bá Chung dùng chữ Phương Bối để chỉ Thầy Nhất Hạnh, vì Thầy đã thiết lập thiền thất Phương Bối Am ở Bảo Lộc khoảng thập niên 1960s để tìm con đường hoằng pháp qua Thiền. Và thi sĩ dùng chữ Yên Tử để chỉ Thầy Thanh Từ vì công trình hồi phục dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử của các vua nhà Trần. Bài thơ “Cuộc tái ngộ của hai Thiền sư” do Nguyễn Bá Chung sáng tác ngày 16 tháng 6/2008 ghi rõ niềm tin của thi sĩ rằng Thiền tập sẽ “cứu muôn dân” tại quê nhà. Bốn đoạn đầu trong bài thơ này trích như sau.

 

Từ bốn phương trời người trở lại

Đường xa bụi bám cỏ giăng đầy

Giấc mộng chuyển trời Phương Bối nguyện

Yên Tử quê nhà mây trắng bay

 

Thế giới loạn cuồng bom đạn đổ

Thân người cháy rụi lửa hờn cao

Chén trà đạo vị - bao năm – nhắp

Giọt nước cành dương sóng sánh trào…

 

Tay lại nắm tay hồn đất nước

Mái chùa lưu lạc đã bao phương

Tìm về đất mẹ dâng hương tổ

Phổ độ quần sinh đoạn đoạn trường

 

Đại Lào ngõ tịnh bao ngày tháng

Khói đỏ thôn nghèo đất nước phân

Phương Bối ai ngồi trong tịch mặc

Đâu con đường thoát cứu muôn dân…

 

Mỗi bài thơ của Nguyễn Bá Chung luôn luôn như dường là một đoạn trong hành trình trở lại quê nhà, nơi nhà thơ nhìn thấy Phật giáo như những hình tượng hộ trì cho dân tộc Việt. Những xúc động của nhà thơ họ Nguyễn hiện rõ trên từng trang thơ, rất mực trân trọng khi nhìn lại vết tích cổ sử. Như bài thơ “La Hán chùa Tây” nơi trang 81-83 với bảy đoạn thơ thất ngôn tứ tuyệt, ghi hình ảnh tượng đứng mãi trên dòng lịch sử trôi chảy vô thường của dân tộc. Trích ba đoạn cuối bài như sau.

 

Tượng nhìn tượng đứng yên như tạc

Ba trăm năm loạn chẳng hề chi

Đầu vẫn rạng quanh quầng trăng sáng

Gió bụi đồi tây có quản gì

 

Văn hóa bao đời dồn kết lại

Tinh anh phát tiết tự vô hình

Người của muôn năm thần đứng trụ

Như hét, như quần cõi tử sinh

 

Pháp còn bỏ huống chi tà pháp

Tượng còn đây, người tượng chốn nao?

La Hán đứng mắt trừng không hỏi

Dáng đứng vô ngôn lộng gió chiều.

 

Tuyển tập thơ Nguyễn Bá Chung còn rất nhiều điều cần nói tới. Bên cạnh những dòng thơ Thiền tràn ngập và xuất sắc, vẫn còn những bài thơ tình lãng mạn, thơ mộng và nuối tiếc. Như bài thơ “Tiếng xưa” trang 97, chỉ có hai đoạn thơ ngũ ngôn tứ tuyệt nhưng chở cả một khung trời kỷ niệm.

 

Nhớ lời ai năm trước

Nhớ hình ai trong sương

Ra đi mờ lửa loạn

Từ cỏ dại lên đường.

 

Hôm nay nhìn mây trắng

Ôi nhớ tiếng ai cười

Giật mình bên ngõ quạnh

Một chiếc lá đang rơi.

 

Đọc kỹ, sẽ thấy tập thơ có lỗi kỹ thuật: in trùng bài thơ “New England mùa thu” ở trang 244 và rồi in lại ở trang 279. Tương tự, bài thơ “Chùa quê” in ở trang 72 và 73 rồi in lại ở trang 128 và 129. Chúng ta dễ hiểu tại sao xảy ra chuyện in trùng, chỉ vì tác giả cư trú ở Hoa Kỳ trong khi biên tập và nhà in ở Việt Nam. Thi tập “Thơ Nguyễn Bá Chung tuyển tập” do Nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành.
 

Tác giả Nguyễn Bá Chung sinh năm 1949 tại Hải Dương, học trung học tại Sài Gòn. Năm 1971 được học bổng du học hậu đại học và định cư tại Hoa Kỳ từ đó đến nay. Ông là chuyên gia giáo dục của viện William Joiner thuộc đại học Masachusetts, Boston; từng là giám đốc chương trình nghiên cứu Rockefelle; giảng viên đại học Masachusetts; điều phối viên chương trình Học hè tại Huế và chương trình trao đổi văn học Mỹ - Việt Nam.
 

Nguyễn Bá Chung là nhà thơ, dịch giả, nhà bình luận văn chương. Ông là đồng dịch giả tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu  và cũng là đồng chủ biên 12 tuyển tập song ngữ của Văn học Việt Nam – Moutain River. Nhà thơ Nguyễn Bá Chung có nhiều bài viết trên các chương trình TV và các tạp chí: TV Vietnam Forum, New Asia Review, Boston Review, Compost, Nation, Manoa, Vietnam Reflection (PBS TV History), Cyphers, First Pages…
 

Ông là tác giả của 4 tập thơ: Mưa ngàn (1996), Ngõ hạnh (1997), Tuổi ngàn năm đến từ buổi sơ sinh (1999), Nguồn (2009) và Thơ Nguyễn Bá Chung tuyển tập vừa ra đời tháng 10.2022. 

Các công trình nổi bật về Phật giáo của Nguyễn Bá Chung là: Ly Tran Zen Poems (nxb Văn Hóa Sài Gòn, 2005, tái bản 6/2007); Le Nguyen Zen Poems (nxb Hội Nhà Văn 6/2019).

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm nay là ngày Lễ Quốc Khánh Hoa Kỳ. Còn gọi là Ngày July Fourth. Các lễ kỷ niệm ngày 4 tháng 7 trên khắp Hoa Kỳ đang trở lại kể như bình thường sau khi đại dịch COVID-19 tàn phá toàn cầu trong hai năm qua. Từ các buổi biểu diễn âm nhạc từng đoạt giải Grammy đến các buổi trình diễn pháo hoa công phu, tiệc sinh nhật của Mỹ đã trở lại thành công rực rỡ.
Lời Dẫn Nhập: Cám ơn bạn hữu gần xa, những người yêu mến nhạc và cả con người Phạm Duy, trong sự tin cậy, đã gửi và cả cho phép sử dụng các nguồn tài liệu quý giá trong đó có những thư từ trao đổi riêng tư với Phạm Duy cách đây cũng đã ngót 30 năm, không ngoài mục đích giúp người viết có chất liệu – đủ cho một cuốn sách, nhưng đó là công trình của tương lai. Đây chỉ một bài viết ngắn, nhưng cũng mong phác thảo được đôi nét chân dung của một nghệ sĩ lớn Phạm Duy -- thần tượng của nhiều người qua nhiều thế hệ, với một cuộc sống đầy cảm hứng nhưng cũng rất phức tạp. Phạm Duy đã sống qua hai thế kỷ, “khóc cười theo vận nước nổi trôi” trong suốt chiều dài của một bi kịch Việt Nam cận đại, vừa hào hùng và cũng vô cùng bi thảm.
LONDON – Từ dự án 360 triệu đô la mở rộng sân bay quốc tế của Zambia ở Lusaka cho đến cảng thành phố trị giá 1.4 tỷ đô la ở thủ đô Colombo của Sri Lanka, Trung Quốc là mảnh ghép còn thiếu trong trò puzzle đàm phán nợ nần ở các nước đang phát triển, theo Reuters đưa tin ngày Chủ Nhật, 3 tháng 7 năm 2022.
KYIV – Nga tuyên bố đã kiểm soát hoàn toàn tỉnh Lugansk, thành trì cuối cùng ở phía đông Ukraine, đây là chìa khóa để đạt được mục tiêu chính trong cuộc chiến của Moscow, theo APnews đưa tin ngày Chủ Nhật, 3 tháng 7 năm 2022.
Trong hai ngày 1 và 2 tháng 7 2022, hàng ngàn giáo dân- trong đó đại đa số là người gốc Việt- đã tề tựu Nhà Thờ Chính Tòa Chúa Ki tô để hân hoan đón mừng Đại Hội Thánh Mẫu lần đầu tiên được tổ chức tại Quận Cam Nam Cali.
Sydney, Úc châu, lụt lớn, nhiều ngàn dân di tản. Belarus: tiếp tục hỗ trợ Nga để dập tắt chủ nghĩa Quốc xã ở Ukraine. Ukraine: Lisichansk chưa thất thủ, còn giao chiến. Nga: Ukraine bắn phi đạn vào cư dân các thành phố Belgorod và Kursk của Nga (nhưng Ukraine nói: đã "vô hiệu hóa 1 trong 4 căn cứ quân sự của Nga" nơi đó). - Zelensky: 2.610 thành phố và thị trấn đang nằm dưới sự chiếm đóng của Nga, quân Ukraine đã giải phóng hơn 1.000 thành phố và chỗ nào cũng cần tái thiết.
Làm sao để đến được cánh cửa để có nhân từ, yêu thương và sự tha thứ, qua sự thấu hiểu? / How to open the door to kindness, love, and forgiveness through understanding?
Phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Nga, Thiếu tướng Igor Konashenkov hôm thứ Bảy cho biết Ukraine đang chịu "tổn thất lớn trên tất cả các mặt trận", đồng thời cho biết thêm rằng 3 tiểu đoàn Ukraine đã mất hơn 1/2 quân số gần các khu định cư ở khu vực Luhansk "chỉ trong một ngày."
✱ BRICS 2009: Loan báo sự cần thiết cho một đồng tiền dự trữ toàn cầu mới, nhằm thay thế sự thống trị của đồng đô la Mỹ ✱ BRICKS 2022: Một liên minh mới nhằm chống lại trật tự thế giới do Hoa Kỳ lãnh đạo, đồng thời mở rộng dấu ấn kinh tế và chính trị ✱ Ông Tập (2022): Toàn cầu hóa kinh tế là một yêu cầu khách quan đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất và là một xu thế lịch sử không thể cưỡng lại ✱ Ông Putin (2022): Nga đang phát triển "các cơ chế trao đổi đồng tiền dự trữ quốc tế" để giảm sự phụ thuộc vào đồng đô la và đồng euro ✱ Cambridge Org (2021): Mặc dù nhóm BRICS đã đề xuất việc phi đô la hóa - Nhưng trong hiện tại một loại tiền tệ khác sẽ không có khả năng sớm thay thế đồng đô la ✱ Sputnik News, Nga (2022). Thực tế đã cho thấy, Mỹ và đồng minh đang là các quốc gia có nền kinh tế mạnh dẫn dắt kinh tế thế giới nên việc thay đổi trật tự ấy không hề dễ dàng ✱ The Soldiers Project: Quân đội Mỹ hiện nay có 750 căn cứ quân sự trú đóng tại trên 80 quốc gia...
Đôi lúc, tôi vẫn nghe các bạn đồng hương (và đồng thời) than thở: “Bọn trẻ ở Hoa Kỳ không mấy đứa biết tôn kính người già.” Có vị còn chua chát thêm: “Bây giờ thì đâu mà chả thế, chứ nào có riêng chi Mỹ.”
VTC News cho biết, Đài Truyền hình Việt Nam vừa quyết định tạm dừng phát sóng các phim hoặc chương trình có hình ảnh Hồng Đăng và Hồ Hoài Anh. Theo Đại sứ quán Việt Nam tại Tây Ban Nha, ngày 25-6, cảnh sát đảo Mallorca (Tây Ban Nha) thông báo đã bắt giữ 2 công dân Việt Nam với cáo buộc "xâm hại tình dục đối với trẻ vị thành niên 17 tuổi" và "xâm phạm quyền riêng tư".
Con người có thể tồn tại trên địa cầu hay không? Câu hỏi rất xa vời như ý nghĩ: Bao giờ tận thế? Nhưng rất gần gũi như ý nghĩ: Khi nào chúng ta cùng nhau chết một lượt? Rất nhiều tai họa làm cho nhiều người chết một lần với nhau, đang xảy ra hàng ngày trên thế giới. Ông Hawkings muốn nói đến vài đại thảm họa giết hầu hết nhân loại cùng một lúc hoặc trong khoảng thời gian ngắn. “Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ.” Câu nói này đúng với những tâm lý thiếu nhạy cảm hoặc nhưng trí tuệ không quan tâm đến vòng tròn. Có người chỉ vẽ một vòng tròn đủ cho mình đứng. Có người vẽ vòng tròn cho gia đình và người thân đứng chung. Có người vẽ vòng tròn lớn bao gồm quốc gia, dân tộc. Người vẽ vòng tròn lớn nhất để cho cả nhân loại cùng đứng. Chết, ai cũng sợ. Nếu không sợ cho bản thân, thì sợ cho những người yêu thương, thân thuộc. Nhưng nếu tất cả đều chết, hình như họ không sợ, có lẽ nào vì chết chung đông đảo sẽ vui vẻ hay sao?
Để chấm dứt những tranh cãi pháp lý xoay quanh việc phá thai sẽ đòi hỏi phải đạt được sự đồng thuận về mặt đạo đức. Nếu có thể trình bày rõ ràng quan điểm đạo đức của chúng ta và thấu hiểu quan điểm của người khác, tất cả các bên sẽ tiến đến gần hơn với một thỏa thuận có nguyên tắc. Bài tổng hợp này dựa theo các chi tiết phỏng dịch từ bài viết đăng trên The Conversation của Nancy S. Jecker, Giáo sư Đạo đức Sinh học và Nhân văn, School of Medicine, University of Washington, đã nghiên cứu các vấn đề đạo đức trong y học và chính sách y tế, bao gồm cả việc phá thai; và các vấn đề liên quan đến quyết định lật ngược án lệ Roe v Wade cuối tuần qua của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ.
Nhà văn Mỹ gốc Việt Khánh Hà đã từng có nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang trong cộng đồng văn học Hoa Kỳ; từng nhận nhiều giải thưởng; từng có một quyển sách được trao đến hai giải thưởng văn học giá trị của Hoa Kỳ cách nhau chỉ một tháng—đó là giải truyện ngắn 2020 William Faulkner Literary Competition trong tháng 9, 2020, và tháng 10, 2020 anh lại đoạt tiếp giải The 2020 Orison Anthology Award in Fiction từ tác phẩm The Woman-Child. Những điều hiếm có này đã được người viết trình bày trước đây trong bài Khánh Thúc Hà (Khanh Ha) Ngôi Sao Việt Tỏa Sáng Trên Vòm Trời Văn Học Hoa Kỳ, đăng trên Việt Báo ngày 29/10/2020. Và sau đó thì tuyển tập truyện ngắn A Mother’s Tale and Other Stories của anh cũng được C&R Press 2020 Fiction Award trao giải thưởng và phát hành năm 2021. Sẽ có bài viết khác về quyển sách đặc biệt này.
Tại phòng Large Gallery, trong khuôn viên Nhà Thờ Chính Tòa Chúa Kitô, Garden Grove, vào lúc 10 giờ sáng Thứ Tư, 22 Tháng Sáu năm 2022, một buổi họp báo để thông báo về chương trình Đại Hội Thánh Mẫu lần đầu tiên sẽ được tổ chức vào hai ngày 1 và 2 Tháng Bảy, nam 2022.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.