Hôm nay,  

Đọc Thơ Nguyễn Bá Chung: Một cõi thơ thiền tịch mặc

27/12/202207:52:00(Xem: 5079)
blank 

Đọc Thơ Nguyễn Bá Chung:

Một cõi thơ thiền tịch mặc

 

Phan Tấn Hải

 

Bất ngờ, tôi mới nhận ra rằng GS Nguyễn Bá Chung cũng là một nhà thơ. Bởi vì một thành kiến tôi có từ lâu, một học giả thường không làm thơ. Trước giờ tôi vẫn nghĩ rằng GS Nguyễn Bá Chung là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu, và là người dịch sang tiếng Anh nhiều bài thơ thời Lý, Trần và thời Lê, Nguyễn --- và đó là những gì tôi từng chú ý nhất, khi đọc hai bản Anh dịch của họ Nguyễn: tập “Ly Tran Zen Poems” (nxb Văn Hóa Sài Gòn, 2005, tái bản 6/2007) và “Le Nguyen Zen Poems” (nxb Hội Nhà Văn 6/2019). Lúc đó, tôi không chú tâm về những sách khác do GS Nguyễn Bá Chung (NBC) dịch, như tiểu thuyết, truyện, thơ… Và rồi một bất ngờ, khi tôi khám phá ra Nguyễn Bá Chung cũng là một nhà thơ rất mực lãng đãng Thiền học, thơ mộng tột vời.
 

Tập thơ mới của NBC nhan đề “Thơ Nguyễn Bá Chung tuyển tập” vừa do nxb Hội Nhà Văn ấn hành vào tháng 10/2022 cho độc giả thấy một cuộc đời khác, một hình ảnh khác về NBC. Hầu hết các bài thơ trong tuyển tập không ghi ngày tháng, nhưng hai bài ‘Lễ hội Côn Sơn I, II” ghi nơi sáng tác là “Chùa Hun, Tháp Huyền Quang, Đền Nguyễn Trãi – Côn Sơn 96” và bài “Qua tháp Trần Nhân Tông” ghi là “Núi Yên Tử 1996” --- nghĩa là, có những bài thơ từ rất nhiều thập niên xa xưa.
 

Tập thơ dày 320 trang, mở đầu tập là lời giới thiệu của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (NQT) nhan đề “Nguyễn Bá Chung và một con đường.” Trong đó, theo Nguyễn Quang Thiều, NBC là một tổng hợp tuyệt vời của tinh thần Phật giáo và văn hóa Việt. Và rồi NQT trích dẫn 4 câu thơ của NBC:

 

Thành quách xa xưa hồn ngỡ lạc

Tiếng chuông chùa cổ bóng nào lay

Người về hỏi chuyện vườn quê vắng

Cỏ đã xanh màu, đất đã thay…

 

Tuyển tập thơ của NBC gồm 206 bài thơ, chia làm 5 phần: Phần I Mưa Ngàn, Phần II Ngõ Hạnh, Phần III Tuổi Ngàn Năm, Phần IV Nguồn, Phần V 20 bài thơ rời.
 

Hầu hết thơ của NBC là về những cảm xúc rất Việt Nam. Trừ vài bài thơ về xứ người, như về New England, chúng ta không gặp các bài thơ có chủ đề ngoài Việt Nam -- hình như tuyển tập NBC chỉ có hai bài thơ có không gian ở quê người. Có thể gợi nhớ để so sánh rằng vào giữa thế kỷ 20, nhiều thi sĩ Việt Nam ưa làm thơ về “mùa thu Paris” hay “người em tóc vàng sợi nhỏ” hay những chủ đề tương tự nơi xứ người. Nhưng lạ rằng Nguyễn Bá Chung, với cơ duyên nửa thế kỷ định cư ở Hoa Kỳ vẫn làm thơ phần đông là chủ đề quê nhà và những ngôi chùa Việt Nam trong trí nhớ.
 
blank 

Như chúng ta thấy trong bài thơ nhan đề “Người đến bạc đầu” có ghi chú nơi sáng tác là  “Thiền viện Goenka, Shelburne, Massachusetts.” Bài thơ lục bát dài 8 dòng nói về cảm thọ vô thường (bạc đầu, lá thổi, cỏ vàng tuổi thơ, theo bờ gió bay, bão rừng thổi ngược, sóng mộng…) trong khi chỉ ra Khổ đế trong dòng chuyển biến thời gian đó (thổi ngược, ray rứt, ôm lấy khổ đau, bạc đầu nhớ nhung…). Chúng ta cũng nhớ rằng phương pháp Thiền của ngài Goenka là ban đầu niệm hơi thở rồi tới niệm cảm thọ. Bài thơ này của Nguyễn Bá Chung như sau:

 

Bao mùa lá thổi về đây

Sông sâu con chữ, thuyền đầy nắng mưa

Cỏ vàng thung lũng tuổi thơ

Ngàn hơi thở đã theo bờ gió bay

Bão rừng thổi ngược ngàn cây

Nhặt khoan sóng mộng chiều ray rứt chiều

Nắng về ôm lấy khổ đau

Xin ngồi cho đến bạc đầu nhớ nhung.

 

Có thể thắc mắc về câu cuối: có vẻ rằng trong khi nhà thơ Nguyễn Bá Chung muốn ngồi cho đến bạc đầu, nhưng trường Thiền Goenka theo truyền thống chỉ cho ngồi 10 ngày một khóa là đóng cửa. Thì làm sao mà ngồi cho tới bạc đầu. Thêm nữa, đã ngồi thiền mà lại nhớ nhung thì hằn là lãng mạn không nên. Thế là nhà thơ lại lên đường tiếp. Do vậy, mới phải nói “nắng về ôm lấy khổ đau” – một hình tượng rất Thiền, vì nắng là ánh sáng trí tuệ, ôm lấy khổ đau để nhận ra Khổ đế…
 

Khi đọc Mục Lục, chúng ta sẽ thấy khung trời thơ mộng của NBC cũng hiện ra trên nhan đề các bài thơ: Nguyễn Du, Bùi Giáng, Như Cánh Vạc Bay, La hán Chùa Tây, Đi Chùa Hương, Núi Thị Vải, Tự Ngã I & II, Lễ hội Côn Sơn I & II, Qua tháp Trần Nhân Tông, Gặp một sư trên chùa Trúc Lâm, Viên Chiếu thiền viện, Đêm ngồi đọc kinh, Ải Chi Lăng, Cử Không, Nguyễn Bính, Động Huyền Không, Đến Thiên Trù nhớ sư Viên Giác, Cuộc tái ngộ của hai Thiền sư, Đọc thơ Lý Trần, Trúc Lâm Yên Tử, Công án, Đêm nằm mơ Bùi Giáng, Thiền hành trên quê hương…
 

Tất cả các nhan đề thơ đó cho chúng ta hình dung tác giả hẳn phải là một nhà sư. Vậy mà không phải. Đó là thơ của học giả Nguyễn Bá Chung. Trong thể loại, cũng là ảnh hưởng từ nền văn học hậu bán thế kỷ 20 tại Việt Nam, đa số là thơ lục bát, thơ tám chữ, thơ bảy chữ, thơ năm chữ… Nghĩa là, chúng ta sẽ thấy trên da thịt máu xương nhà thơ Nguyễn Bá Chung là tiếng chuông chùa Lý Trần vang vọng trên các dòng lục bát, nơi đó đã từng nuôi lớn những Nguyễn Du, Bùi Giáng…
 

Trong văn học Việt Nam, có một số nhà thơ nổi tiếng với các bài tự trào, như Nguyễn Khuyến, Phạm Thái, Tú Xương… Mỗi nhà thơ tự trào vẫn có một kiểu cách riêng, đóng khung trong môi trường lịch sử riêng. Trong khi Nguyễn Khuyến tự trào trong cương vị một quan lớn bị giáng chức, rồi từ quan về quê ở ẩn trong thời Pháp lấn quyền vua, với “Mở miệng nói ra gàn bát sách, Mềm môi chén mãi tít cung thang.” Tú Xương lại tự trào khi lang thang nơi chốn bụi đời thành thị giữa lúc giao thời với “Lọng cắm rợp trời quan sứ đến, Váy lê phết đất mụ đầm ra.” Hay nơi thế kỷ 18, nhà thơ Phạm Thái, một thời ẩn vào chùa Tiêu Sơn với đạo hiệu Phổ Chiếu Thiền sư, tự trào sau khi cả gia tộc phù Lê thất bại và bị Tây Sơn đánh cho tan tác với “Năm bảy bài thơ ngâm lếu láo, Một vài câu kệ tụng a ê.”. Nhưng Nguyễn Bá Chung khác hẳn, từ nơi rất xa quê nhà, anh tự trào vì tự tin đã hiểu hết giáo lý nhà Phật nhưng vẫn chưa sống cho trọn.
 

Bài thơ Tự Trào I của Nguyễn Bá Chung với thể thơ thất ngôn, gồm 12 câu trong ba đoạn, nơi trang 33, đã hiển lộ tấm lòng này.

 

Tự trào I

Sống chết chi mà chạy ngược xuôi

Sách vài trăm quyển chữ như rươi

Chân không diệu pháp đây rành hết

Chỉ cái phiền là nhấp nhổm thôi

 

Mới hay nói dễ làm không dễ

Đầu vượn chân dài vạn nỗi tai

Mỏi mòn đôi gót bờ hư thực

Nửa cuộc đời sai vẫn cứ sai

 

Lên xuống thấp cao ngàn ngõ cụt

Ra vào khấp khểnh một đường ngay

Nẻo về không lối hoa dâng bụt

Bát ngát hương rừng một nhánh mai.

 

 Tuy nhiên, tới bài Tự Trào II, cùng thể thơ và độ dài, là một bầu không khí khác hẳn, như dường Nguyễn Bá Chung ra sức ngồi kiết già hoài mà vẫn bất như ý, tới khi tự xem như bại trận, chẳng chờ chẳng đợi gì nữa, thì hốt nhiên “không mong mà lại đươc,” và khi “một cơn gió thổi bay ngàn lá” thì hiển lộ ra màu trăng (trí tuệ) sáng rực giữa sân. Bài thơ này nơi trang 34 như sau.

 

Tự trào II

Dẫu học bao lâu đầu vẫn đặc

Tâm như quạt gió bụi tung trời

Ngồi bệt kiết già dăm bảy chốc

Một đàn kiến lửa kéo ra chơi

 

Thôi ừ bại trận, thôi không ước

Nhấp nhổm chi cho khổ kiếp người

Thôi cứ cho như là chẳng biết

Chẳng chờ chẳng đợi chẳng lôi thôi

 

Có phải không mong mà lại được

Cho nên chờ đợi hóa ra lầm

Một cơng ió thổi bay ngàn lá

Vàng cả màu trăng sáng giữa sân.

 

Tất cả các bài thơ Nguyễn Bá Chung làm có liên hệ tới Bùi Giáng đều hay dị thường, rất hiếm gặp. Đó là bài “Bùi Giáng” nơi trang 46-48, bài    “Nhớ Bùi Giáng” trang 215-217, bài “Trung niên thi sỹ” trang 268, bài “Đêm nằm mơ Bùi Giáng” trang 314.
 

Như trong bài thơ “Bùi Giáng” trang 46-48, làm theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, dài 36 câu. Nơi đây, chúng ta trích 8 dòng giữa bài, có nhắc tới hình ảnh “Vạn Hạnh” chỉ cho Đại Học Vạn Hạnh, nơi từng là chỗ nhà thơ Bùi Giáng cư ngụ và lui tới thường xuyên, và “Kim Cương” chỉ tới nữ nghệ sĩ Kim Cương, một bạn thân của nhà thơ họ Bùi. Cũng nhắc tới “Trang Phương” gợi nhớ tới bài thơ tình của Bùi Giáng nhan đề “Xuân thu trang phương” trong tập Mưa Nguồn – trong đó, trang phương là chỉ cho sự hiện diện của người nữ, với chữ trang là làm đẹp dung nhan, và chữ phương là hương thơm đức hạnh. Chữ “Thanh hiên” là hiệu của nhà thơ Nguyễn Du. Trích như sau.

 

Kinh Vạn Hạnh pha bao màu nắng

Gió Kim Cương trải mấy lần vân

Giờ mê hoặc người ngồi dịch sách

Bàng hoàng nghe gió lộng đầy sân?

 

Câu thơ cũ người đề tặng cỏ

Tháng ngày xanh người mải chăn dê

Trời Trang Phương đến giờ mở ngõ

Cõi thanh hiên người có đi về?

 

Để hiểu tất cả các điển tích trong thơ Nguyễn Bá Chung hiển nhiên là cần phải có kiến thức về một thời văn học miền Nam. Tuy nhiên, nếu tách ra khỏi các chữ đầy điển tích đó, hẳn là không có được một bầu không khí gợi nhớ tới Bùi Giáng, Nguyễn Du, Vạn Hạnh, Kim Cương…
 

Cũng hay dị thường là bài thơ “Nhớ Bùi Giáng” với bảy đoạn thơ tám chữ. Bầu không khí trong thơ bảy chữ trong bài vừa dẫn mấy đoạn trên cũng chuyển thành một phương trời rất lạ trong thể thơ tám chữ cùng chủ đề Bùi Giáng. Nếu Nguyễn Bá Chung không hít thở tắm gội trong thơ Bùi Giáng, hẳn là không viết nổi những dòng thơ chở được những thơ mộng thần sầu quỷ khốc như thế. Trong bài “Nhớ Bùi Giáng” ở trang 215-217, có nhắc chuyện Bùi Giáng một thời chăn dê với “con dê choai hoa cà tía con hươu” và thơ họ Bùi đôi khi tặng “con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại” – nơi đây, chúng ta trích ba đoạn giữa như sau (trong thơ, Nguyễn Bá Chung gọi Bùi Giáng là “người”).

 

Thơ người đó – một khoảng trời chợt hẫng

Rơi về đâu – phố thị sa mù xa

Đường lục tỉnh ai có buồn cố quận

Mơ mòng chi – dê trắng, kiến không nhà

 

Người yêu cả cuộc đời – buồn vui lẫn

Yêu say cuồng, yêu dại dột u mê

Người bỏ hết để một lần được đứng

Nhìn dáng em trong cổ mộng đi về

 

Người có khóc trước cuộc đời u uẩn

Thương thời gian tàn lụn giữa thanh hiên

Dù có gọi nhưng lời không đủ gọi

Nên đã đành… tan tác gió qua miền

 

Có một điểm hết sức kinh ngạc: Nguyễn Bá Chung không phải là người ngồi trong cánh cổng nhà chùa, cũng không trực tiếp là học trò của các Thiền sư nổi tiếng được nhắc tới trong thi tập, nhưng tấm lòng thiết tha với Thiền học Việt Nam hiển lộ rất minh bạch trong thơ anh. Bài thơ “Thiền hành trên quê hương” nơi trang 315-317, sáng tác vào tháng 5/2005, gồm chín đoạn thất ngôn tứ tuyệt, ghi lại niềm vui sướng vô bờ khi nhìn thấy Thiền sư Thích Nhất Hạnh về thiền hành trên nhiều nẻo đường quê hương để “thắp niềm tin trên ngàn gẫy đổ” và để “đơm cội nguồn đất mẹ phù sa.” Nơi đây, chúng ta trích ba đoạn thơ Nguyễn Bá Chung ở trang 315-316.

 

Bà cụ già rưng rưng mắt lệ

Bao năm rồi sống lại phút giây

Chú thiền sinh bàng hoàng tỉnh thức

Pháp thoại nào xanh gió xanh cây

 

Cũng pháp ấy – lời tân niên kỷ

Cũng thiền ngồi – hùng tráng uy nghi

Cũng thiền lạy – một thời vô úy

Cũng thiền hành – trời đất cùng đi

 

Giữa quê hương người về chia sẻ

Bao tháng năm gieo pháp xứ người

Nối lại truyền thông từng thế hệ

Ươm tình thâm – hoa trái cuộc đời…

 

Tấm lòng thiết tha của Nguyễn Bá Chung với Thiền học quê nhà hiển lộ rõ trong bài thơ “Cuộc tái ngộ của hai Thiền sư” nơi trang 197-199, gồm sáu đoạn thơ thất ngôn tứ tuyệt, nói về Thiền sư Thích Nhất Hạnh sau nhiều thập niên xa quê nhà đã tới Đà Lạt thăm Thiền sư Thích Thanh Từ. Hai nhà sư, hai khuynh hướng Thiền. Trong khi Thầy Nhất Hạnh lập ra Thiền phái Làng Mai, với cách đơn giản hóa pháp Chánh niệm cho dễ truyền pháp sang phương Tây, Thầy Thanh Từ nơi quê nhà ra sức hồi phục dòng Thiền Trúc Lâm. Trong bài thơ này, Nguyễn Bá Chung dùng chữ Phương Bối để chỉ Thầy Nhất Hạnh, vì Thầy đã thiết lập thiền thất Phương Bối Am ở Bảo Lộc khoảng thập niên 1960s để tìm con đường hoằng pháp qua Thiền. Và thi sĩ dùng chữ Yên Tử để chỉ Thầy Thanh Từ vì công trình hồi phục dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử của các vua nhà Trần. Bài thơ “Cuộc tái ngộ của hai Thiền sư” do Nguyễn Bá Chung sáng tác ngày 16 tháng 6/2008 ghi rõ niềm tin của thi sĩ rằng Thiền tập sẽ “cứu muôn dân” tại quê nhà. Bốn đoạn đầu trong bài thơ này trích như sau.

 

Từ bốn phương trời người trở lại

Đường xa bụi bám cỏ giăng đầy

Giấc mộng chuyển trời Phương Bối nguyện

Yên Tử quê nhà mây trắng bay

 

Thế giới loạn cuồng bom đạn đổ

Thân người cháy rụi lửa hờn cao

Chén trà đạo vị - bao năm – nhắp

Giọt nước cành dương sóng sánh trào…

 

Tay lại nắm tay hồn đất nước

Mái chùa lưu lạc đã bao phương

Tìm về đất mẹ dâng hương tổ

Phổ độ quần sinh đoạn đoạn trường

 

Đại Lào ngõ tịnh bao ngày tháng

Khói đỏ thôn nghèo đất nước phân

Phương Bối ai ngồi trong tịch mặc

Đâu con đường thoát cứu muôn dân…

 

Mỗi bài thơ của Nguyễn Bá Chung luôn luôn như dường là một đoạn trong hành trình trở lại quê nhà, nơi nhà thơ nhìn thấy Phật giáo như những hình tượng hộ trì cho dân tộc Việt. Những xúc động của nhà thơ họ Nguyễn hiện rõ trên từng trang thơ, rất mực trân trọng khi nhìn lại vết tích cổ sử. Như bài thơ “La Hán chùa Tây” nơi trang 81-83 với bảy đoạn thơ thất ngôn tứ tuyệt, ghi hình ảnh tượng đứng mãi trên dòng lịch sử trôi chảy vô thường của dân tộc. Trích ba đoạn cuối bài như sau.

 

Tượng nhìn tượng đứng yên như tạc

Ba trăm năm loạn chẳng hề chi

Đầu vẫn rạng quanh quầng trăng sáng

Gió bụi đồi tây có quản gì

 

Văn hóa bao đời dồn kết lại

Tinh anh phát tiết tự vô hình

Người của muôn năm thần đứng trụ

Như hét, như quần cõi tử sinh

 

Pháp còn bỏ huống chi tà pháp

Tượng còn đây, người tượng chốn nao?

La Hán đứng mắt trừng không hỏi

Dáng đứng vô ngôn lộng gió chiều.

 

Tuyển tập thơ Nguyễn Bá Chung còn rất nhiều điều cần nói tới. Bên cạnh những dòng thơ Thiền tràn ngập và xuất sắc, vẫn còn những bài thơ tình lãng mạn, thơ mộng và nuối tiếc. Như bài thơ “Tiếng xưa” trang 97, chỉ có hai đoạn thơ ngũ ngôn tứ tuyệt nhưng chở cả một khung trời kỷ niệm.

 

Nhớ lời ai năm trước

Nhớ hình ai trong sương

Ra đi mờ lửa loạn

Từ cỏ dại lên đường.

 

Hôm nay nhìn mây trắng

Ôi nhớ tiếng ai cười

Giật mình bên ngõ quạnh

Một chiếc lá đang rơi.

 

Đọc kỹ, sẽ thấy tập thơ có lỗi kỹ thuật: in trùng bài thơ “New England mùa thu” ở trang 244 và rồi in lại ở trang 279. Tương tự, bài thơ “Chùa quê” in ở trang 72 và 73 rồi in lại ở trang 128 và 129. Chúng ta dễ hiểu tại sao xảy ra chuyện in trùng, chỉ vì tác giả cư trú ở Hoa Kỳ trong khi biên tập và nhà in ở Việt Nam. Thi tập “Thơ Nguyễn Bá Chung tuyển tập” do Nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành.
 

Tác giả Nguyễn Bá Chung sinh năm 1949 tại Hải Dương, học trung học tại Sài Gòn. Năm 1971 được học bổng du học hậu đại học và định cư tại Hoa Kỳ từ đó đến nay. Ông là chuyên gia giáo dục của viện William Joiner thuộc đại học Masachusetts, Boston; từng là giám đốc chương trình nghiên cứu Rockefelle; giảng viên đại học Masachusetts; điều phối viên chương trình Học hè tại Huế và chương trình trao đổi văn học Mỹ - Việt Nam.
 

Nguyễn Bá Chung là nhà thơ, dịch giả, nhà bình luận văn chương. Ông là đồng dịch giả tiểu thuyết Thời xa vắng của nhà văn Lê Lựu  và cũng là đồng chủ biên 12 tuyển tập song ngữ của Văn học Việt Nam – Moutain River. Nhà thơ Nguyễn Bá Chung có nhiều bài viết trên các chương trình TV và các tạp chí: TV Vietnam Forum, New Asia Review, Boston Review, Compost, Nation, Manoa, Vietnam Reflection (PBS TV History), Cyphers, First Pages…
 

Ông là tác giả của 4 tập thơ: Mưa ngàn (1996), Ngõ hạnh (1997), Tuổi ngàn năm đến từ buổi sơ sinh (1999), Nguồn (2009) và Thơ Nguyễn Bá Chung tuyển tập vừa ra đời tháng 10.2022. 

Các công trình nổi bật về Phật giáo của Nguyễn Bá Chung là: Ly Tran Zen Poems (nxb Văn Hóa Sài Gòn, 2005, tái bản 6/2007); Le Nguyen Zen Poems (nxb Hội Nhà Văn 6/2019).

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đã tới năm 2020, mà vẫn còn một số bài viết mới phát tán trên mạng, và tác giả bài viết ấy chỉ dựa vào con số 16% lượng nước sông Mekong đổ xuống từ Trung Quốc, để bảo rằng ảnh hưởng chuỗi đập khổng lồ Vân Nam là không đáng kể, đó như một biện minh che chắn cho những việc làm sai trái của Bắc Kinh trên dòng Mekong trong suốt hơn 3 thập niên qua
1) "Vi khuẩn này *nguồn gốc* đến từ Trung Quốc! Vậy có gì sai khi gọi nó là “Trung Quốc”? Điều này đúng. NHƯNG vấn đề ở chỗ: dù vô tình hay cố ý, tên gọi này kích động sự kỳ thị chủng tộc đối với người Châu Á, dẫn đến việc người Mỹ gốc Á (thuộc MỌI nguồn gốc dân tộc) và các người Á Châu khác bị tấn công hành hung dữ dội: https://people.com/…/coronavirus-racist-attacks-against-as…/
Hôm Thứ Năm, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đưa ra cảnh giác toàn cầu kêu gọi tất cả công dân Mỹ “không được đi ra nước ngoài” và những ai còn ở hải ngoại thì hãy trở về Hoa Kỳ ngay lập tức nếu không họ có thể bị kẹt ở ngoại quốc “vô thời hạn.”
3 tiểu bang tại Hoa Kỳ là Illinois, New York và California hôm Thứ Sáu đã ra lệnh tất cả cư dân phải ở trong nhà ngoại trừ họ có những lý do quan trọng để đi ra ngoài, hạn chế di chuyển đối với hơn 70 triệu người Mỹ trong các biện pháp nghiêm ngặt nhất tại Hoa Kỳ để kềm chế sự lây lan của vi khuẩn corona.
Những người mượn tiền học của chính quyền liên bang sẽ có thể hoãn việc trả tiền 2 tháng mà tiền lời không bị tích lũy, theo TT Trump và Bộ Giáo Dục cho biết hôm Thứ Sáu, 20 tháng 3.
Hệ thống bán lẻ lớn nhất thế giới Walmart đang tuyển dụng 150,000 công nhân và sẵn sàng dung bãi đậu xe của họ để xét nghiệm vi khuẩn corona trong nỗ lực của công ty này đối phó với các thách thức bất ngờ của đại dịch lan nhanh.
Vào ngày 20/03/2020 , 5 vị Dân Biểu Liên Bang gởi đến Hội Đồng Giám Sát Quận Cam một lá thư, có liên quan đến các biện pháp giúp đỡ cư dân và doanh nghiệp thuộc Quận Cam, cũng như cách đáp ứng với sắc lệnh “An Toàn Ở Nhà” mới nhất của Tiểu Bang California. Sau đây là toàn văn nội dung lá thư được dịch sang Việt ngữ
Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, tư lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vừa qua đời ở Connecticut, Hoa Kỳ, ngày 19/3/2020, hưởng thọ 87 tuổi. Xin chia sẻ suy nghĩ về một vị tướng lừng danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, lãnh 17 năm tù cộng sản vẫn không ngừng vận động để dân Việt thoát ách cộng sản.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang chịu cơn khát chưa từng có, dân cư phải mua nước giá 250.000 đồng/mét khối, trong khi ở San Diego, nhà máy khử mặn nước biển thành nước uống bán với giá 30.000 đồng/mét khối.
Số liệu corona đáng kinh ngạc từ Ý: Trong vòng 24 giờ, hơn 600 người ở nước này đã chết vì hậu quả của virus corona mới. Đây là số nạn nhân cao nhất trong một ngày cho đến nay, như văn phòng dân sự Ý thông báo hôm thứ Sáu 20.3.2020. Cho đến nay, hơn một phần tư triệu người đã bị nhiễm bệnh trên toàn thế giới, theo số liệu của AFP dựa trên dữ liệu chính thức. Số người chết vượt quá 11.000 - hơn một nửa số người chết ở châu Âu.
Sữa bò được xem như một thức uống rất bổ dưỡng và cần thiết cho mọi người bất luận tuổi tác. Mỗi người dân Québec tiêu thụ lối 84lít sữa một năm. Đa số chọn sữa 2% chất béo. Sữa mẹ là một thức uống cần thiết khi các hài nhi vừa mới chào đời.
Thế giới đang lên cơn sốt cao độ về bịnh dịch Vũ Hán lây lan như vũ bảo . Từ trưa ngày 17/03, ông Tổng thống Pháp ban hành lệnh «giới nghiêm» trên cả nước trong 15 ngày tối thiểu . Âu châu đóng cửa 30 ngày . Các nước Đức, Áo, Ba-lan, Tây-ban-nha,…đóng cửa biên giới, áp dụng nhiều biện pháp phòng bịnh rất nghiêm nhặc .
Viện Robert-Koch tiên đoán trận đại dịch này có thể diễn tiến từng đợt và có thể kéo dài đến 2 năm. Chloroquine được cho là có tác dụng diệt khuẩn SARS-CoV-2 rất tốt trong ống nghiệm nhưng chưa rõ tác dụng lên người nhiểm khuẩn. Có nơi cho là Chloroquine rất độc hại cho cơ thể vì thế không nên sử dụng thuốc này để chữa bệnh.
Đại dịch corona hiện nay không phải chỉ mang lại vô số thiệt hại về vật chất và tinh thần đối với toàn nhân loại, mà còn mang lại sự thay đổi cách mà lực lượng lao động làm việc trong những tháng năm tới qua 3 cách thức, theo ký giả Ashley Stahl viết trên báo Forbes hôm 12 tháng 3 năm 2020. Khi tình trạng khẩn cấp y tế toàn cầu được ban hành thì thường mang đến ánh sáng rọi vào những chỗ bất cấp trong hạ tầng cơ sở của thế giới và lực lượng lao động
Muối ăn (NaCl) là những hạt mầu trắng, vị mặn, tách ra từ nước biển hoặc khai thác từ mỏ di tích của biển. Đây là một chất cần thiết cho mọi sinh vật nhưng cũng có nguy cơ gây bệnh nếu dùng quá nhiều. Muối ăn được dùng từ thuở rất sớm trong lịch sử loài người. Trước đây, vì khan hiếm, nên muối là nguồn lợi mà nhiều lãnh chúa tranh giành. Ngày nay, nhờ kỹ thuật tinh chế tân tiến, muối được sản xuất dễ dàng, nhiều hơn và rẻ hơn.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.