Hôm nay,  

Song ngữ: Chư Phật Đản Sinh… Liên Hệ Giữa Kinh A Hàm Và Thiền Tông / When the Buddhas were born...

13/06/202309:45:00(Xem: 3046)
blank  

Song ngữ: Chư Phật Đản Sinh… Liên Hệ Giữa Kinh A Hàm Và Thiền Tông / When the Buddhas were born... The connection between the Agama Sutras and Zen /

 

Chân Hiền Tâm

 

Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng:

 

Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán. Trong 100 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật Tì-bà-thi chỉ dùng một bài kệ làm giới cấm :

 

Nhẫn nhục là bậc nhất

 

Phật nói vô vi hơn

 

Không do cạo râu tóc

 

Làm sa môn hại người

 

Một trăm năm sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, đức Phật mới lập giới cấm.

 

Kế là đức Phật hiệu là Thi-khí Như Lai ra đời, bấy giờ Thánh chúng cũng có ba hội. Trong 80 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật chỉ dùng một bài kệ làm giới cấm :

 

Nếu mắt thấy tà vạy

 

Người trí giữ không đắm

 

Xả bỏ các điều ác

 

Là trí tuệ ở đời

 

Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật mới đặt ra giới cấm.

 

Trong Hiền kiếp ấy, đức Phật hiệu là Tì-xá-la-bà ra đời, bấy giờ Thánh chúng cũng có ba hội. Trong 70 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật chỉ dùng một bài kệ làm giới cấm :

 

Không hại cũng không quấy

 

Vâng giữ theo đại giới

 

Ăn uống biết vừa đủ

 

Giường tòa cũng như vậy

 

Chuyên tâm và chí thành

 

Là lời chư Phật dạy

 

Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật mới đặt ra giới cấm.

 

Trong Hiền kiếp ấy, đức Phật hiệu là Câu-lưu-tôn ra đời, bấy giờ Thánh chúng có hai hội. Trong 60 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật chỉ dùng một hai bài kệ làm giới cấm :

 

Ví như ông hút hoa

 

Sắc hoa rất sạch thơm

 

Lấy vị ngọt cho người

 

Đạo sĩ vào làng xóm

 

Không chê bai việc người

 

Cũng không nhìn phải quấy

 

Chỉ tự quán thân hạnh

 

Quán kỹ chánh không chánh

 

Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật mới đặt ra giới cấm.

 

Trong Hiền kiếp ấy, đức Phật hiệu là Câu-na-hàm Mâu-ni Như Lai ra đời, bấy giờ Thánh chúng có hai hội. Trong 40 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật chỉ dùng một bài kệ làm giới cấm :

 

Giữ chí chớ khinh lờn

 

Nên học đạo vắng lặng

 

Bậc hiền không lo buồn

 

Nên giữ tâm tịch diệt

 

Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật mới đặt ra giới cấm.

 

Khi đức Phật hiệu là Ca-diếp ra đời, bấy giờ Thánh chúng có hai hội. Trong 20 năm đầu, Thánh chúng thanh tịnh, Phật chỉ dùng một bài kệ làm giới cấm :

 

Chớ làm các điều ác

 

Vâng làm các điều lành

 

Giữ tâm ý thanh tịnh

 

Là lời chư Phật dạy

 

Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật mới đặt ra giới cấm.

 

Khi Phật Thích-ca Mâu-ni Như Lai ra đời, có một hội Thánh chúng gồm 1250 người. Trong 12 năm đầu không có người phạm giới, Phật dùng một bài kệ làm giới cấm:

 

Giữ miệng ý thanh tịnh

 

Thân hành cũng thanh tịnh

 

Thanh tịnh ba hạnh này

 

Tu hành đạo tiên nhân

 

Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Phật mới có 250 giới cấm v.v…

 

Thời kỳ tăng chúng được thanh tịnh không cần đến giới luật, giảm dần qua các đời. So với Thánh chúng trong các hội, thánh chúng của Phật Thích-ca cũng rất ít. So với tuổi thọ của các Phật trước, tuổi thọ của Phật Thích-ca cũng rất ngắn. Tuy vậy, sau khi các đức Phật quá khứ diệt độ, pháp không trụ lâu ở đời. Chỉ sau khi Phật Thích-ca diệt độ, chánh pháp mới trụ lâu ở đời. Trong kinh, Phật nói với ngài A-nan: “Không nên nghĩ đệ tử của ta ít. Đệ tử của ta ở phương đông nhiều vô ức ngàn, ở phương nam cũng vô số ức ngàn. Cho nên, này A-nan! Hãy nghĩ như vầy: Phật Thích-ca của ta thọ mạng rất dài lâu. Vì sao? Vì nhục thân tuy diệt độ nhưng pháp thân tồn tại. Đây là nghĩa vừa nói. Ông hãy ghi nhớ lấy!”.[1] Điều này ứng với việc Phật đã nói khi vừa sinh ra và đi đến bước thứ bảy: “ Trên trời dưới đất chỉ mình ta là tôn quí ”. Ta, chỉ cho pháp thân mà Phật đã nói, là tánh thể mà chúng sinh và Phật đồng có, chỉ do mê hay ngộ mà ẩn hay hiển, không phải chỉ cho nhục thân hay cái tôi của Thích-ca Mâu-ni.

 

Lâu xa về sau, đến thời Phật Di-lặc ra đời, khi ấy ở Diêm-phù-đề, các thứ núi sông vách đá đều tự tiêu diệt, đất đai bằng phẳng ngay ngắn như gương sáng, thời tiết khí hậu điều hòa, thân người không có tham dục, sân nhuế, ngu si, lười biếng v.v… Y phục tự có. Đại địa tự nhiên sinh lúa. Tiền tài của cải như ngói gạch không ai quan tâm. Lúc ấy có một đại thần tên là Tu-phạm-ma, không cao không thấp, không mập không ốm, không trắng không đen, không già không trẻ. Vợ là Phạm-ma-việt, không có tám mươi bốn trạng thái của người nữ, không bệnh, ý không tán loạn. Ở cung trời Đâu Suất, Bồ-tát Di-lặc quán sát thấy cha mẹ không già không trẻ, liền giáng thần hạ sinh từ hong bên phải như Thích-ca. Ngài cũng có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân màu hoàng kim. Đại thần đặt tên cho con là Di lặc.

 

Di-lặc ở nhà không bao lâu bèn xuất gia học đạo. Xuất gia vào nửa đêm, ngay đêm đó thành đạo dưới cội Long Hoa. Cõi nước rung động theo sáu cách. Địa thần bảo nhau: “Di-lặc đã thành Phật”. Lời ấy truyền đến cung trời Tứ thiên vương, rồi đến Tam thập tam thiên, Diệm-ma thiên, Đâu suất thiên v.v… Ma vương đem vô số chư Thiên cõi dục đến lễ bái cung kính. Cha Tu-phạm-ma, mẹ Phạm-ma-Việt, trưởng giả Thiện Tài v.v… mỗi người đều mang tám muôn bốn ngàn người đến chỗ Di-lặc. Di-lặc vì họ mà thuyết pháp Tứ đế, bố thí, trì giới v.v…

 

Phật Thích Ca nói với đệ tử hành 12 hạnh đầu đà là Đại Ca-diếp, Sơ tổ của Thiền tông, như sau: “Này Đại Ca-diếp! Ông không nên nhập niết bàn. Nên đợi đến khi Di-lặc ra đời. Vì sao? Vì đệ tử của Phật Di-lặc giáo hóa đều là đệ tử của ta, do ta hóa độ để lại, đã sạch hữu lậu. Đại Ca-diếp sẽ trụ trong núi ở thôn Tì-đề xứ Ma-kiệt cho đến khi Phật Di-lặc mang đại chúng vây quanh núi. Nương ân đức Phật, các quỉ thần vì Phật mở cửa, khiến mọi người thấy được Ca-diếp đang tọa thiền trong đó. Thấy rồi, vô số chúng sinh chấm dứt trần cấu được pháp nhãn thanh tịnh. Chín mươi sáu ức người đều chứng La-hán. Vì sao? Vì đều nhận sự giáo hóa của ta. Cũng do nhân duyên bốn món cúng dường : Bố thí, nhân ái, lợi hành và đồng sự. Này A-nan! Bấy giờ Di-lặc sẽ đắp y tăng-già-lê của Ca-diếp. Khi đó thân thể Ca-diếp tan rã. Di-lặc liền mang các thứ hương hoa cúng dường Ca-diếp. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn đều có tâm cung kính đối với chánh pháp. Di-lặc cũng do chánh pháp hóa mà có được, thành tựu đạo vô thượng chánh giác”. Xem ra, Đại Ca-diếp tuy không lộ diện, nhưng lại chính là người nắm giữ mạng mạch Phật pháp từ thời Phật Thích-ca cho đến Di-lặc.

 

Thời Di-lặc, trong 1000 năm đầu, chúng tăng không lỗi lầm. Di-lặc thường dùng một bài kệ làm giới cấm:

 

Miệng và ý không ác

 

Thân cũng không phạm ác

 

Nên trừ ba hạnh này

 

Chóng thoát vượt sinh tử

 

Về sau, trong chúng phát sinh lỗi lầm, Di-lặc mới lập giới cấm.

 

Phật Di-lặc thọ tám vạn bốn ngàn tuổi, pháp để lại tồn tại tám vạn bốn ngàn năm. Vì chúng sinh thời ấy đều là hàng lợi căn. Ngài nói: “Trong chúng này có đệ tử của Phật Thích-ca thời quá khứ từng tu phạm hạnh mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca vâng giữ pháp ấy mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca cúng dường Tam bảo mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca tu căn lành trong khoảng khảy móng tay mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca tu Tứ vô lượng tâm mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca thọ trì tam qui ngũ giới mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca tạo dựng tháp miếu chùa viện mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca sửa sang chùa cũ mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca thọ trì Bát quan trai mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca dùng hương hoa cúng dường mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca nghe Phật pháp buồn khóc rơi lệ mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca suốt đời tu phạm hạnh mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca viết kinh đọc tụng mà đến chỗ ta. Hoặc ở nơi Thích-ca thừa sự cúng dường mà đến chỗ ta”. Xem ra, hội Long Hoa gần như ai cũng có phần. Chỉ cần tu căn lành trong khoảng một khảy móng tay là đã gieo được cái nhân để gặp Phật Di-lạc trong tương lai, huống là đọc tụng, biên chép, thọ trì các kinh luận Đại thừa. Đã gieo nhân thì đủ duyên sẽ có quả. Nhanh hay chậm, lâu hay mau là do chúng ta tỉnh giác mau hay chậm, chịu tinh tấn tu hành hay giải đãi làm biếng v.v… Song chỉ khi tâm không rơi vào nhị biên phân biệt, ý không tán loạn, thì Di-Lặc trong mỗi chúng ta mới thật sự đản sinh.

 

Phật Thích-ca dạy: “Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào muốn được gặp Di-lặc và ba hội chúng thanh văn, muốn ăn lúa thóc tự nhiên và y phục tự nhiên, sau khi chết sinh cõi trời thì hãy nên gắng sức tinh tấn, đừng sinh giải đãi, nên cúng dường thừa sự các Pháp sư, cúng dường các thứ hương hoa hương thơm đừng để thiếu thốn…”. Cúng dường trân châu, mã não, đất đai, chùa chiền v.v… thì có khi chúng ta không đủ điều kiện, nhưng cúng dường hương hoa hay thừa sự các Pháp sư thì chắc không khó. Chỉ là tùy tâm của mỗi người có chịu thừa sự, lấy đó làm pháp cúng dường không thôi.

 

Nhân mùa Phật đản, xin nguyện tất cả chúng sinh, dù là Phật tử hay chưa là Phật tử, đều được “Miệng và ý không ác. Thân cũng không làm ác”, lấy đó làm ‘pháp cúng dường’ cúng dường mười phương chư Phật cùng tất cả chúng sinh trong mười phương pháp giới.

 

 

[1] Kinh Tăng Nhất A-hàm quyển 3.

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a10400/chu-phat-dan-sinh-lien-he-giua-kinh-a-ham-va-thien-tong

 

.... o ....

 

Bilingual: When the Buddhas were born... The connection between the Agama Sutras and Zen / Chư Phật Đản Sinh… Liên Hệ Giữa Kinh A Hàm Và Thiền Tông

 

 

Author: Chân Hiền Tâm

 

Translated by Nguyên Giác

 

 

 

The Ekottara Agama, volume III, says as follows.

When the Buddha named Vipasyin Tathagata was born, the holy assembly at that time had three assemblies, all of them arhats. In the first 100 years, the holy Sangha was pure. As precepts, Vipasyin Buddha employed only lessons from one verse.

 

Patience is the highest virtue.

The Buddha says the highest dharma is the unconditioned.

Shaving one's hair does not lead to enlightenment.

As a monk, do not harm people.

 

Someone in the Sangha committed some blunders after a hundred years, and the Buddha instituted precepts.

  

Next, the Buddha named Sikhin Tathagata was born, and the Sangha also had three assemblies. In the first 80 years, the holy Sangha was pure, and the Buddha used lessons from one verse as precepts.

 

When seeing impure scenes,

the wise protect their minds from sinking.

The wisest person in the world

is the one who rejects evil.

  

Later, someone in the Sangha made a mistake, and the Buddha established the precepts.

  

In that Kalpa, the Buddha named Visvabhu Tathagata was born, and around then the blessed Sangha likewise had three congregations. In the first 70 years, the holy Sangha was pure, and the Buddha used only lessons from one verse as precepts.

  

Don't hurt anyone, and don't do anything wrong.

Keep the great precepts.

Maintain moderation when eating and drinking.

The same with the bed and seat.

Diligence and sincerity are the

teachings of the Buddhas.

  

Later, someone in the Sangha made a mistake, and the Buddha set forth the precepts.

  

In that Kalpa, the Buddha named Krakucchanda Tathagata was born. At that time, the holy assembly had two assemblies. During the first 60 years, the holy assembly was pure, the Buddha only used one or two verses as precepts.

 

Just as bees suck flowers,

and keep their colors clean and fragrant,

you should give life only by the sweet taste.

The monk enters the village and

should only mindfully observe his own body.

He did not disparage anything or

hold any opinion regarding what is right or wrong.

  

Later, someone in the Sangha made a mistake, and the Buddha set forth the precepts.

  

In that Kalpa, the Buddha with the name of the Kanakamuni Tathagata was born. At that time, the holy assembly had two assemblies. In the first 40 years, the holy assembly was pure, the Buddha used only lessons from one verse as precepts.

  

Be careful, not careless, in

learning the Way to quiet your Mind.

The wise find no reason to be concerned or sorrowful,

and they always maintain their minds tranquil.

  

Later, someone in the Sangha made a mistake, and the Buddha set forth the precepts.

 

When the Buddha named Kassapa Tathagata was born. At that time the Sangha had two assemblies. In the first 20 years, the holy Sangha was pure, and the Buddha used only lessons from one verse as precepts.

  

To avoid all evil,

to cultivate good,

and to purify one’s mind.

This is the teaching of the Buddhas.

  

Later, someone in the Sangha made a mistake, and the Buddha set forth the precepts.

 

When Shakyamuni Buddha was born, there was a holy congregation of 1,250 people. In the first 12 years, no one broke the precept, and the Buddha used lessons from a verse as precepts.

  

Keep your words, thoughts,

and actions pure.

The purification of these three

is the path to liberation.

  

Later, someone in the Sangha made a mistake, and the Buddha set forth the 250 precepts.

 

There was no need for precepts during the period of pure monks, but the levels of purification declined throughout time. Shakyamuni Buddha's congregation also had very few holy people compared to the congregations of previous Buddhas. Compared to the life span of the previous Buddhas, the life of Shakyamuni Buddha was also very short. However, after the extinction of the Buddhas of the past, the Dharma did not last long in the world. Solely after Shakyamuni Buddha passed away, the genuine Dharma has endured long on the planet.

  

"Do not think that my disciples are few," the Buddha stated to Ananda in the sutras. "There are many millions of my followers in the East and many millions in the South. So, Ananda! Consider the following scenario: Shakyamuni Buddha has lived for a very, very long time. Why? Because the physical body will be destroyed, while the dharma body will continue to exist indefinitely. This is exactly what I just said. Please remember that!"

 

This corresponds to what the Buddha said when he was born and went to the seventh step: "In heavens and on earth, only I am precious." The term "I" refers to the dharmakaya that the Buddha mentioned, which is the nature that all creatures and the Buddha have, but which is only hidden or revealed by illusion or enlightenment, and not to Shakyamuni's physical body or any of his ego.

  

All mountains, rivers, and cliffs will be destroyed when Maitreya Buddha comes into the world, and the land will be flat and clean like a bright mirror. The weather and climate will be good, and people will be free of lust, ill will, stupidity, and laziness. At that time, clothes will appear on their own, rice will grow naturally on the land, money, gold, and silver are only seen as bricks and tiles -- no one cares about anything.

  

At that time, there will be a great officeholder named Tu-Phạm-ma, who will be neither tall nor short, fat nor thin, white nor black, old nor young. Pham-maviet is the wife's name; she does not have the eighty-four states of a woman, her body is not sick, and her mind is not scattered. Observing that his parents are neither old nor young, Maitreya Bodhisattva descends from Tusita heaven and emerges from his mother's right hip like Shakyamuni. He also will have thirty-two good marks, eighty beauties, and a golden body. The great officeholder will name the child Maitreya.

  

Maitreya will only be at home for a short time before leaving to study the Way. He will leave home at midnight, and on that same night, he will attain enlightenment under the Long Hoa tree. The whole world will vibrate in six ways. The gods of the earth will say to each other: "Maitreya has become a Buddha." Those words will travel to the Four Heavenly Kings' heavens, then to the Thirty-Three Heavens, Yamadevaloka, and Tusita's heavens... Mara will bring innumerable devas of the sensual realm to pay respects. Tu Pham-ma, Pham-ma-Viet, and the nobleman Thiện Tài will each bring eighty-four thousand individuals to Maitreya. Maitreya will teach them the Four Noble Truths, generosity perfection, and morality perfection.

  

The following is what Shakyamuni Buddha told Mahakasyapa, the disciple who performed the twelve dhutagunas and the founding patriarch of Zen Buddhism:

  

"Mahakasyapa! You should not enter nirvana. You should wait until Maitreya is born. Why? Because the disciples of Maitreya Buddha are all my disciples, left by me, and free of defilements. Mahakasyapa should stay in the mountain in the village of Tì-đề in the country of Ma-kiệt until Maitreya Buddha brings a large crowd around the mountain. Thanks to the Buddha, the spirits and gods will open the door for the Buddha, allowing everyone to see Mahakasyapa meditating in it. Seeing that, innumerable sentient beings will cease to afflict with pure Dharma eye. At that time, 96,000,000,000 people will become Arahants. Why? Because they all received my teachings, and they also made the four offerings: generosity, kindness, useful deeds, and cooperation. Ananda! Maitreya will then put on the sanghati robes of Kassapa. Then Kassapa's body will be disintegrated. Maitreya will immediately bring all kinds of incense and flowers as offerings to Kassapa. Why? Because the Buddhas all have reverence for the true Dharma. Maitreya will likewise study Dharma and attain unrivaled virtuous enlightenment."

  

Consequently, in spite of the fact that Mahakasyapa didn't show up, he was the person who held the existence of the Buddha's teachings from the time of Shakyamuni Buddha to Maitreya.

  

In Maitreya's time, for the first 1000 years, the holy Sangha was pure, and Maitreya Buddha used only lessons from one verse as precepts.

  

Those who keep evil out of

their words, thoughts, and acts

will soon be free of

the cycle of birth and death.

 

Later, someone in the Sangha made mistakes, and the Maitreya Buddha set forth the precepts.

 

Maitreya Buddha will live for eighty-four thousand years, and the dharma left behind will last eighty-four thousand years. At that point, all sentient beings will be wise. Maitreya Buddha will say:

  

"There are former followers of Shakyamuni Buddha in this gathering who used to practice the holy life and come to me. There are also people who used to dwell in Shakyamuni's realm and honor the Dharma but now come to me. There are also people in the realm of Shakyamuni who made offerings to the Three Jewels and now come to me. There are also people who lived in Shakyamuni's realm and now come to me after doing good deeds within a finger snap. There are also people who used to live in the realm of Shakyamuni and practice the Four Immeasurable Minds and now come to me. Additionally, there are those who once resided in Shakyamuni's realm, followed the five precepts, took the three refuges, and now come to me. Additionally, there are those who once resided in Shakyamuni Buddha's realm, constructed towers and temples, and now come to me. There are also people who used to be in Shakyamuni's realm using incense and flowers to make offerings and now come to me. There are also people who used to receive and adhere to the Eight Precepts in the realm of Shakyamuni but now come to me. There have also been persons who came to me who were once in Shakyamuni's realm and heard the Buddha's teachings while feeling sorrowful and crying. There are also persons who came to me who used to be in Shakyamuni's realm, hand-copying Buddhist sutras, reading, and chanting. There are also people who used to reside in Shakyamuni's realm and make offerings now come to me."

  

It seems that almost everyone has a share in the Dragon Flower Association. Reading, reciting, copying, and defending the Mahayana sutras, let alone developing a good seed in the period of a finger snap, is already sowing the cause to meet Maitreya Buddha in the future. You will have enough grace to have an outcome if you have sown a cause. Enlightenment will come sooner or later, depending on whether we awaken fast or slowly, practice vigorously or casually. In fact, if the mind does not slip into dualism and is not scattered, Maitreya Buddha is born in every one of us.

  

"Good men and good women who wish to meet Maitreya Buddha and his three assemblies of sravakas, to have naturally-coming rice and clothes, to be reborn in heaven after death... should practice the Dharma diligently, make offerings to the dharma masters, make offerings of fragrant flowers and incense..." said Shakyamuni Buddha.

 

Many of us are unable to make offerings of gold, jewelry, land, temples, and so on.  It is, however, not difficult to make flower and incense offerings or to devote time to serving the sangha. Whether or not to serve the Sangha and see that as an offering is entirely up to the individual's heart.

  

On the occasion of the Buddha's birthday, may all sentient beings, whether Buddhist or non-Buddhist, "Be free from evil in their words, thoughts, and acts." And may that vow be the 'dharma offering' to make offerings to the buddhas of the ten directions as well as all sentient beings in the ten directions' dharma realms.

 

(A note was removed for the audio version.)

 

…. o ….

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hoa Kỳ, Anh và hơn mười quốc gia khác đã công bố những chi tiết thỏa thuận quốc tế đầu tiên về việc đảm bảo an toàn cho trí tuệ nhân tạo (AI) khỏi những kẻ có ý đồ xấu, thúc đẩy các công ty phải tạo ra các hệ thống AI “an toàn từ bước thiết kế”, theo Reuters.
Vào Chủ nhật, ngày thứ ba của lệnh ngừng bắn, Hamas đã thả 17 con tin bị bắt ở Gaza, trong đó có một bé gái người Mỹ 4 tuổi, trong khi Israel cũng thả tự do cho 39 tù nhân người Palestine, theo Reuters.
Cựu Tổng thống Donald Trump cho biết ông đang “nghiêm túc xem xét các lựa chọn thay thế” cho Đạo luật Chăm sóc Giá cả phải chăng (còn gọi là ObamaCare, y tế cho dân nghèo) nếu trở lại Bạch Ốc, khơi lại chiến dịch lâu dài của Trump chống lại luật chăm sóc sức khỏe đặc trưng của cựu Tổng thống Barack Obama. Nỗ lực thất bại của Trump vào năm 2017 trong việc bãi bỏ luật chăm sóc sức khỏe đã bị chỉ trích vì viễn cảnh hàng triệu người Mỹ mất bảo hiểm y tế.
Giáo sư Nguyễn Văn Sâm vừa ấn hành một tác phẩm có nhan đề sách rất dài: “Tuồng Bảy Mối Tội Đầu của LM Hồ Ngọc Cẩn và Tuồng Joseph – 1887 của Trương Minh Ký.” Cuốn sách này là tuyển tập 2 vở tuồng được viết trong tinh thần Công Giáo của vùng đất Nam Bộ của thời kỳ cuối thế ký thứ 19 và đầu thế kỷ 20. Đây là ấn bản 2023 do GS Nguyễn Văn Sâm giới thiệu và chú giải.
Có lẽ ai cũng biết rằng tử vi bói toán là một khoa giải đoán tương lai đời người về vận mạng, tình duyên, gia đạo, học hành thi cử, thời vận thịnh suy, tốt xấu và chọn hướng nhà đất thích hợp, bao gồm cả việc so đôi tuổi và hóa giải sự xung khắc vợ chồng, chọn ngày giờ tốt để khai trương, cưới hỏi, cùng là giải hạn xấu, dựa theo một vài yếu tố như ngày, giờ, tháng, năm sinh của người xin coi bói toán.
Buổi sáng ngày Thứ Tư 29/11/2023, theo giờ Việt Nam, sẽ là ngày trà tỳ (hỏa thiêu) nhục thân của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, theo thông báo của Ban Điều Hành Tang Lễ. Tang lễ của Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ sẽ được tổ chức tại chùa Phật Ân (Long Thành, tỉnh Đồng Nai).
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là bậc cao Tăng thạc đức trong chốn Thiền môn Việt Nam. Trong suốt hơn nửa thế kỷ qua, Ngài đã tận tụy cống hiến công đức xứng đáng của mình cho: - Việc giáo dục nhiều thế hệ Tăng, Ni và cư sĩ trong và ngoài nước; - Việc phiên dịch, luận giải và chú thích nhiều Kinh, Luật và Luận thuộc Thanh Văn và Bồ-tát Tạng; - Việc nghiên cứu và sáng tác nhiều tác phẩm rất giá trị về tư tưởng triết lý, Phật học, và văn chương thi phú.
HT. Tuệ Sỹ không chỉ uyên bác về Phật Giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa, Thầy còn tinh thông triết học Tây phương, văn chương, thơ, âm nhạc. HT nghiên cứu thẳng từ nguyên tác của các văn nhân, thi sĩ nổi tiếng của Trung quốc như Tô Đông Pha, Lý Hạ, Đỗ Phủ… Ngoài những khảo luận Triết học và Phật học, HT đã viết tác phẩm đầy thi vị: ‘Tô Đông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng’ (Ca Dao xb, Sài Gòn, 1973). Về âm nhạc, HT chơi đàn guitar, violon, piano, thổi sáo. Thầy tìm hiểu âm nhạc dân tộc, lại rất am tường nhạc cổ điển Tây phương. HT làm nhiều thơ, viết một số truyện ngắn và các tiểu luận triết học, phê bình văn học đặc sắc, phần lớn đăng trên các tạp chí Khởi Hành (1969-1972) và Thời Tập (1973-1975) tại Sài Gòn. Đồng thời HT cũng là Tổng thư ký tòa soạn Tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh. Tập thơ đặc sắc bằng chữ Hán, ‘Ngục trung mị ngữ’ được HT làm trong tù sau năm 1975, và các tập thơ ‘Giấc mơ Trường sơn’, ‘Những điệp khúc cho dương cầm’, ‘Thiên lý độc hành’ sau này đã được dịch ra Anh,
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, Húy thượng NGUYÊN hạ CHỨNG, đời thứ 44 Dòng Lâm Tế Chánh Tông và đời thứ 10 Thiền Phái Liễu Quán, Chánh Thư Ký kiêm Xử Lý Thường Vụ Viện Tăng Thống GHPGVNTN, Chủ Tịch Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời, Cố Vấn Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN, đã thuận thế vô thường thâu thần thị tịch tại Chùa Phật Ân, Huyện Long Thành, Tỉnh Đồng Nai, Việt Nam, vào lúc 16:00 giờ, ngày 24 tháng 11 năm 2023, nhằm ngày 12 tháng 10 năm Quý Mão, trụ thế 79 năm, hạ lạp 41. (Bản tin chi tiết do GHPGVNTN đang soạn thảo, sẽ được Việt Báo đăng ngay khi nhận được.)
Khởi đầu từ một sáng kiến vào tháng Tư năm 2000 –gần một phần tư thế kỷ đời người đã trôi qua với biết bao thăng trầm, Giải Thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ vẫn trụ lại, bền bỉ thắp sáng dưới bầu trời chữ nghĩa những câu chuyện người Việt lưu vong xuyên thế hệ. Câu chuyện người Việt thế hệ chúng ta, thế hệ lưu vong thứ nhất, và câu chuyện thế hệ con cái chúng ta, chỉ có chúng ta biết. Chuyện thật, người thật, những mảnh đời bắt đầu lại từ sau Tháng Tư Đen, những mảnh đời tiếp nối, mất mát, gầy dựng, thất bại, thành công, biết bao biến cố, chúng ta làm sao không kể không viết không góp chuyện vào những trang sách.
Tại phòng họp TBC & VietLife TV số 15609 Beach Blvd, Thành Phố Westminster vào lúc 10 giờ sáng thứ bảy, ngày 18 tháng 11 năm 2023, Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam tổ chức cuộc gặp gỡ giới truyền thông Việt ngữ và đại điện một số đoàn thể cộng đồng để công công bố Báo Cáo Nhân Quyền tại Việt Nam 2022-2023 và kết quả Giải Nhân quyền Việt Nam 2023.
Nghệ (turmeric) là một loài thực vật có hoa thuộc họ gừng. Từ lâu, nghệ đã được đánh giá cao trong nền y khoa cổ Ayurvedic ở Ấn Độ nhờ đặc tính chống viêm. Với ẩm thực Châu Á, nghệ cũng được ưa thích bởi hương vị và màu sắc của nó. Trong tiếng Hindi, nghệ được gọi là Haldi, có nguồn gốc từ tiếng Phạn có nghĩa là “màu vàng.” Nhưng đối với hàng triệu người Nam Á thường xuyên sử dụng nghệ, màu vàng rực rỡ của nghệ có thể khiến họ mất mạng.
Clever Care Health Plan Inc. (sau đây sẽ gọi là "Clever Care"), một chương trình Medicare Advantage hàng đầu, đang công bố một loạt sự kiện tri ân hội viên của công ty với sự cộng tác của các tổ chức phi lợi nhuận trong cộng đồng địa phương, các đại lý bán hàng tận tâm và các nhà cung cấp dịch vụ khác. Những sự kiện này là cách để Clever Care bày tỏ lòng biết ơn của mình với các hội viên, đồng thời nâng cao sức khỏe tổng thể và thể chất lành mạnh của nhiều cộng đồng văn hóa. Để phù hợp với sự cống hiến của mình trong nỗ lực phá bỏ rào cản ngôn ngữ và tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc, mỗi sự kiện của Clever Care sẽ được tổ chức bằng các ngôn ngữ khác nhau, phản ánh đúng cộng đồng hội viên đa dạng mà công ty phục vụ.
Thời gian Mở Ghi Danh Medicare (Open Enrollment) đang diễn ra. Chúng tôi đã chọn một số câu hỏi về chủ đề này và muốn chia sẻ thông tin trong chuyên mục của tháng này. Chúng tôi đã thêm một câu hỏi để giải quyết rõ ràng hơn những lĩnh vực mà nhiều người còn nhầm lẫn về vắc xin ngừa COVID-19. Nếu quý vị có thêm câu hỏi về Medicare, Medicaid, thị trường bảo hiểm Y tế theo đạo luật chăm sóc giá cả phải chăng, phúc lợi hưu trí an sinh xã hội, thu nhập an sinh bổ sung hoặc tiêm chủng ngừa COVID/cúm, quý vị có thể liên hệ với chúng tôi ngay hôm nay bằng 3 cách:


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.