Hôm nay,  

Song ngữ: The method of guarding the senses / Phương pháp phòng hộ các căn

25/07/202318:06:00(Xem: 3147)
blank

Song ngữ: The method of guarding the senses / Phương pháp phòng hộ các căn 

 

Thích Trung Định

 

Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.

 

Có sáu giác quan là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, tiếp xúc với sáu đối tượng trần cảnh là: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Theo quan điểm của Phật giáo, sự tiếp xúc giữa các giác quan và các đối tượng trần cảnh là một cơ hội để tham muốn, chán nản, bất thiện tràn vào tâm thức. Định lý duyên khởi chỉ ra rằng, sự tiếp xúc sinh các cảm thọ, từ cảm thọ sinh ra ái dục, từ ái dục sinh ra chấp thủ, từ chấp thủ sinh ra hiện hữu, từ hữu có sinh, già, bệnh, chết, sầu bi khổ ưu não. Khi cắt đứt một mắt xích nào trong chuỗi duyên khởi này thì khổ đau chấm dứt. Đó là ý nghĩa của phương pháp phòng hộ các căn.

 

Khi căn tiếp xúc với trần, con người có thói quen tồn tại hai khuynh hướng phản ứng tâm lý, một là yêu thích, dễ chịu; hai là ghét bỏ, khó chịu. Theo Phật giáo, cả hai khuynh hướng trên đều do vô minh chi phối và là nguyên nhân sâu xa gây đau khổ. Chính vì thiếu hiểu biết về bản chất phụ thuộc và luôn thay đổi của các giác quan cùng các đối tượng của chúng mà con người yêu những gì hợp ý hoặc trở nên giận ghét với những gì không phù hợp và điều này làm cho chúng ta đau khổ. Có thể nói rằng đau khổ phát sinh chủ yếu là do tham, sân, si. Do vậy, phòng hộ các căn là ngăn chặn tâm tham, sân, si phát sinh do sự tiếp xúc.

 

Trong bài giảng đầu tiên, Bài giảng về lửa, Đức Phật tuyên bố rằng: “Tất cả đều đang cháy”. Tất cả chỉ là sáu căn, sáu trần và sáu thức. Con mắt đang cháy với sắc trần, lỗ tai đang cháy với thanh trần… tương tự như vậy với các căn và trần còn lại. Chúng đang cháy với những đám cháy của phiền não và đau khổ.

 

Tương ưng về xứ tuyên bố rằng, để đoạn tận vô minh và tạo ra sự hiểu biết chân thật, chúng ta phải quán chiếu tất cả sáu nội ngoại xứ (thập nhị xứ) là vô thường, khổ đau và vô ngã. Sáu căn đang cháy với sáu trần sinh ra tham đắm, chấp thủ, thì cũng từ nơi sáu xứ này để dập tắt, đoạn trừ chúng. Đây là con đường thực tập để đạt được Niết-bàn (S.35:147). Một con đường khác, được đề cập trong kinh Sự trống rỗng của thế giới (S.35:85), là phải thấy rằng sáu giác quan trống rỗng - trống rỗng về một cái tôi hay cái gì thuộc về tự ngã của tôi. Vì tất cả chỉ là sự phát sinh từ sáu căn, sáu trần và sáu thức, nên nó cũng là vô ngã1.

 

Phòng hộ các căn không có nghĩa là đóng bít các giác quan không cho tiếp xúc với các trần cảnh. Điều này là không thể. Chỉ chánh niệm tỉnh giác, phòng hộ các căn không để cho tâm rong ruổi tìm cầu rồi dẫn đến khổ đau. Trong kinh Tương ưng bộ, Đức Phật trình bày về phòng hộ các căn như sau:“Và làm thế nào, này các Tỷ-kheo, một người luôn phòng hộ các căn môn?

 

Ở đây, vị Thánh đệ tử, khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ưu, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng… mũi ngửi hương… lưỡi nếm vị… thân cảm xúc… ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ưu, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Như vậy là vị Thánh đệ tử hộ trì các căn”2.

 

Kinh Trường bộ (kinh Sa-môn quả), Đức Phật dạy: “Vị ấy, nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng lạc thọ nội tâm, không vẩn đục”3. Hộ trì các căn bằng cách thực tập chánh niệm tỉnh giác, tâm không còn tham luyến với các trần cảnh, tâm an định và bắt đầu phát sinh niềm hỷ lạc. Đây chính là kết quả lợi lạc của pháp môn phòng hộ các căn, tức thực nghiệm một nếp sống sáng suốt, thanh thản, an lạc với cái tâm không còn bị chi phối bởi ngoại cảnh, không còn phản ứng dao động bởi mọi thứ thuận duyên hay nghịch ý. Được như vậy, hành giả không còn bị ngoại cảnh chi phối, làm chủ được tâm và bắt đầu đi vào chánh đạo.

 

Trong kinh Trung bộ (kinh Căn tu tập), Đức Phật dạy về phương pháp chế ngự các căn như sau: “Này Ananda, thế nào là vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc Thánh? Ở đây, này Ananda, vị Tỷ-kheo, mắt thấy sắc, khởi lên khả ý, khởi lên bất khả ý, khởi lên khả ý và bất khả ý. Vị ấy tuệ tri như sau: ‘Khả ý này khởi lên nơi ta, bất khả ý này khởi lên nơi ta, khả ý và bất khả ý này khởi lên nơi ta. Cái này khởi lên, vì là hữu vi nên thô. Nhưng cái này là an tịnh, cái này là thù diệu, tức là xả’.

 

Cho nên, dẫu cho cái gì khởi lên là khả ý, bất khả ý hay khả ý và bất khả ý, tất cả đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Này Ananda, như một người có mắt, sau khi mở mắt, lại nhắm mắt lại, hay sau khi nhắm mắt, lại mở mắt ra; cũng vậy, như vậy là tốc độ, như vậy là sự mau chóng, như vậy là sự dễ dàng đối với cái gì đã khởi lên, khả ý, bất khả ý hay khả ý và bất khả ý, (tất cả) đều đoạn diệt (trong vị ấy), và xả tồn tại. Trong giới luật bậc Thánh, này Ananda, như vậy gọi là vô thượng căn tu tập đối với các sắc do mắt nhận thức…”4.Vị ấy cũng thực hành như vậy với các căn còn lại.

 

Như vậy, để phòng hộ các giác quan có hai nhiệm vụ chính cần phải làm. Một là, vị ấy phải học cách kiểm soát ham muốn của mình khi căn tiếp xúc với trần. Hai là, vị ấy học cách nhìn rõ bản chất của tất cả những cảm giác là không thật, vô thường, biến đổi.

 

Tuy nhiên, sự thực tập này đi ngược lại thói quen của xã hội văn minh vốn đề cao chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy cảm. Do đó, phần lớn con người vẫn thường sống trong sự chi phối bởi cảm xúc giác quan. Ngành quảng cáo, du lịch, ẩm thực, âm nhạc tập trung đánh vào, nhằm thỏa mãn thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác của khách hàng để thu về lợi nhuận. Như chúng ta đã biết, ham muốn của con người để thỏa mãn về thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác và các đối tượng tinh thần đã sinh ra cái gọi là nền văn minh của nhân loại.

 

Nhưng chính những ham muốn này đã trở thành một sự thật nghiệt ngã tạo nên mối đe dọa lớn đối với sự tồn vong của chúng ta. Mâu thuẫn của nền văn minh hiện đại nằm ở ngay chính nó: trong tâm ích kỷ cố hữu của con người đã vẽ ra một viễn cảnh để con người đạt được mục đích phục vụ sự thỏa mãn cảm giác. Bất chấp những thành tựu vượt trội của nó, thật khó để giả định rằng một nền văn minh đề cao tính tự trọng và hoạt động theo cách kích thích sự gia tăng ham muốn nhục dục ở con người như hiện nay có thể đảm bảo sự phát triển liên tục và lâu dài mà không mang lại sự rắc rối.

 

Kết quả của xu hướng này là từ những suy nghĩ tham lam và hiếu chiến xuất phát từ tính tự cho mình là trung tâm đã mở đường cho mọi tệ nạn trong xã hội. Càng nhiều người tìm kiếm sự thỏa mãn trong các thú vui nhục dục thì thế giới càng rơi vào khủng hoảng. Ngày nay, người đã hiểu được rằng lòng tham hay dục vọng là đầu mối của chiến tranh và khủng hoảng toàn cầu như: ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, v.v… Do đó, cách duy nhất để thoát khỏi tình trạng này là thực tập kiềm chế lòng tham dục.

 

Bằng kinh nghiệm cá nhân, Đức Phật đã chỉ ra cho mọi người thấy rằng, một người không thể chinh phục được ham muốn của mình đối với các thú vui giác quan trừ khi bản thân vị ấy trải nghiệm được hỷ lạc phát sinh từ kết quả của sự thực tập thiền định. Điều này cho thấy thiền định của Phật giáo có khả năng điều phục những ham muốn nhục dục và con người có thể tìm kiếm những thú vui khác vượt lên những thú vui giác quan.

 

Đức Phật gọi những trải nghiệm hạnh phúc sinh ra từ thiền định ‘là hạnh phúc của sự từ bỏ, hạnh phúc của sự xả ly, hạnh phúc của sự an bình và hạnh phúc của sự tỉnh giác’. Điều này giải thích trong thực tế rằng, những niềm vui sinh ra từ việc phòng hộ các căn có bản chất ôn hòa và vị tha, trong khi những niềm vui của giác quan có bản chất hung hăng và ích kỷ.

 

Do đặc tính của chúng, niềm vui sinh ra từ thiền định trong Phật giáo được gọi là ‘những thứ tuyệt vời, thánh thiện và không sợ hãi’, trong khi những ham muốn giác quan được xem là ‘thấp hèn, xấu xa và đáng sợ’. Từ quan điểm này, chúng ta có thể nói rằng thế giới sẽ thoát khỏi thảm họa do con người tạo ra và phẩm giá con người sẽ tăng trưởng một khi việc chế ngự các căn của Phật giáo trở thành một trong những mục tiêu phấn đấu của toàn thể nhân loại.

 

___________________

 

1 Bhikkhu Bodhi, In the Buddha’ Word, An Anthology of Discourses from the Pāli Canon, Wisdom Publications, Boston, 2005, p. 311.

2 F. L. Woodward, The Book of the Kindred Sayings, Vol.IV, pp.110-11.

3 HT.Thích Minh Châu, dịch, Trường bộ kinh, Kinh Sa-môn quả, (Sàmannaphala sutta).

4 HT.Thích Minh Châu, dịch, Trung bộ kinh, Kinh Căn tu tập, https://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung152.htm

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a39179/phuong-phap-phong-ho-cac-can

 

.... o ....

 

The method of guarding the senses / Phương pháp phòng hộ các căn

 

 

Author: Thích Trung Định

Translated by Nguyên Giác

 

 

The Buddha taught in great depth about protection of the senses (guarding the senses against defilements), among many Buddhist practices.

  

There are six senses, namely eyes, ears, nose, tongue, body and mind, which will come into contact with the six sense objects of sight, sound, smell, taste, touch, and dharmas. From the Buddhist point of view, the contact between the senses and worldly objects is an opportunity for lustful, unwholesome, and unwholesome thoughts to flood the mind. The law of dependent origination states that contact gives rise to feelings, then from feeling arises craving, then from craving arises grasping, then from grasping arises being, which leads to birth, old age, illness, death, grief, and suffering. When a link in this chain of dependent origination is severed, suffering ceases. That is the meaning of the method of protecting the senses.

  

When the senses come into contact with objects, there are usually two directions of psychological reaction: liking when the feeling is pleasant and aversion when the feeling is unpleasant. According to Buddhism, both of these tendencies are driven by ignorance and are the root cause of suffering. It is out of ignorance of the nature of those reactions and because of the constant flux of the senses and their objects that we either love what is pleasant or hate what is unpleasant, which, as a result, makes us miserable. Therefore, it can be said that suffering arises mainly due to greed, hatred, and delusion. And so, guarding the senses has the purpose of preventing thoughts of greed, hatred, and delusion from arising from that contact.

  

In the first group of suttas, the Fire Sermon Discourse (i.e., SN 35.28), the Buddha declared: "All is on fire." All means six senses, six objects, and six consciousnesses. The eye is burning with what is seen, the ear is burning with what is heard, and so on with the remaining senses and sense objects. They are burning with fires of affliction and suffering.

  

The Linked Discourses on the Six Sense Fields state that, in order to end ignorance and create true understanding, we must contemplate all six internal and six external sense bases (i.e., the twelve fields) as impermanent, unsatisfactory, and not-self. The six senses that are burning with the six sense objects give rise to greed and grasping, and from these six fields, the burning fire can be extinguished and annihilated. This path of practice can lead us to attain Nirvana (SN 35.147 Sutta: Aniccanibbānasappāyasutta). Another path, mentioned in the Sutta The Emptiness of the World (SN 35.85 Sutta: Suññatalokasutta), is to see that the six senses are empty of self and of what belongs to self. Since everything arises from the six senses, the six sense objects, and the six consciousnesses, everything is empty of self.

 

Protecting the senses does not mean blocking the senses from contact with objects. Such a thing is not possible. Just keep your mind in mindfulness and clear comprehension, guarding the senses, and not letting the mind wander and search (a mind that wanders and searches will lead to suffering). In the Saṃyutta Nikāya, the Buddha presented the protection of the senses as follows:

 

And how does a mendicant guard the sense doors? When a mendicant sees a sight with their eyes, they don’t get caught up in the features and details. If the faculty of sight were left unrestrained, bad unskillful qualities of covetousness and displeasure would become overwhelming. For this reason, they practice restraint, protecting the faculty of sight, and achieving its restraint. When they hear a sound with their ears … When they smell an odor with their nose … When they taste a flavor with their tongue … When they feel a touch with their body … When they know a thought with their mind, they don’t get caught up in the features and details. If the faculty of mind were left unrestrained, bad unskillful qualities of covetousness and displeasure would become overwhelming. For this reason, they practice restraint, protecting the faculty of mind, and achieving its restraint. That’s how a mendicant guards the sense doors.” (AN 3.16 Sutta, translated by Bhikkhu Sujato)

 

In the discourses of Dīgha Nikāya (DN 2 Sutta: The Fruits of the Ascetic Life), the Buddha taught: "Endowed with this noble restraint of the sense faculties, he experiences within himself an unblemished happiness." (Trans. by Bhikkhu Bodhi) By guarding the senses with mindfulness and clear comprehension, the mind will be unattached to objects, settle down, and begin to generate joy and happiness. This is the beneficial result of the method of protecting the senses, that is, experiencing a clear, relaxing, peaceful life with a mind that is unaffected by external circumstances and no longer reacts to the fluctuations of everything favorable or unfavorable. Having done so, the practitioner is unaffected by any external circumstance, masters his mind, and begins to enter the right path.

  

In the discourses of Majjhima Nikāya (MN 152 Sutta: The Development of the Faculties), the Buddha taught the method of guarding the senses as follows:

 

And how, Ānanda, is there the supreme development of the faculties in the training of the Noble One? When a mendicant sees a sight with their eyes, liking, disliking, and both liking and disliking come up in them. They understand: ‘Liking, disliking, and both liking and disliking have come up in me. That’s conditioned, coarse, and dependently originated. But this is peaceful and sublime, namely equanimity.’ Then the liking, disliking, and both liking and disliking that came up in them cease, and equanimity becomes stabilized. It’s like how a person with clear eyes might open their eyes then shut them; or might shut their eyes then open them. Such is the speed, the swiftness, the ease with which any liking, disliking, and both liking and disliking at all that came up in them cease, and equanimity becomes stabilized. In the training of the Noble One this is called the supreme development of the faculties regarding sights known by the eye." (Trans. by Bhikkhu Sujato) The mendicant also practices the same with the remaining senses.

 

Thus, in order to guard the senses, there are two main tasks that need to be done. First, the practitioner has to learn to control his desires when his sense organs are in contact with the objects. Second, he learns to see clearly the nature of all sensations as unreal, impermanent, and ever-changing.

  

However, these practices go against the habits of a civilized society that promote materialism and emotionalism. Therefore, most people still live under the influence of the emotions of the senses. Businesses in advertising, tourism, food, and music focus on satisfying customers' vision, hearing, smell, taste, and touch to earn profits. And as we all know, humanity's desire for the satisfaction of sight, hearing, smell, taste, touch, and mental objects gave birth to the so-called civilization of mankind.

  

It is those desires that have become a harsh truth and pose a great threat to the very existence of humanity. The contradiction of modern civilization lies in itself: man's inherent selfish desire has drawn a vision for man to achieve his goal, to serve sensory gratification. Despite the remarkable achievements of civilized society, it is difficult to assume that a civilization that promotes self-interest and operates in such a way as to stimulate an increase in lustful desire in humans can ensure continuous and long-term development without bringing trouble.

  

The result of this tendency is the greedy and belligerent thoughts that come from the self-centeredness that has paved the way for all evils in society. The more people seek satisfaction in sensual pleasures, the more the world is in crisis. Nowadays, it is understood that greed and lust are the sources of war and of global crises such as environmental pollution, resource depletion, etc. Therefore, the only way out of this disaster is to practice mindfulness to prevent greed and craving.

  

By personal experience, the Buddha pointed out to everyone that a person cannot conquer his desire for sensory pleasures unless he himself experiences the joy and happiness that arise as a result of meditation practice. This shows that Buddhist meditation has the ability to subdue sensual desires and that the practitioner can seek other pleasures beyond sensory pleasures.

  

The Buddha called the happy experiences born of meditation "the happiness of renunciation, the happiness of equanimity, the happiness of peace, and the happiness of awareness." This explains the fact that the pleasures born from guarding the senses are of a peaceful and altruistic nature, while the pleasures of the senses are of an aggressive and selfish nature.

  

Because of their properties, the joys born of meditation in Buddhism are called "wonderful, holy, and fearless things," while sensory desires are seen as "lowly, evil, and terrifying." From this point of view, we can say that the world will be free from man-made catastrophes and that human dignity will increase once the Buddhist method of guarding the senses becomes one of the striving goals of all mankind.

 

(All notes were removed in the English version.)

 

.... o ....

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Xin giới thiệu đến độc giả một bài viết của Alice Su, một biên tập viên của báo Los Angeles Time viết về vấn đề thiết bị y tế kém chất lượng mà Trung Quốc đã và đang gởi đến cho các nước trên thế giới. Cô cũng gọi nơi đó là "Thiên đường lừa đảo". Cô là người Hoa, lớn lên ở Hong Kong, Taiwan, Shanghai và California, học tại Princeton University and Peking University. Cô viết cho tờ LA Times. Cô được giải the 2014 Elizabeth Neuffer Memorial Prize của the United Nations Correspondents Association khi cô viết về cuộc khủng hoảng của những người tị nạn ở Jordan and Lebanon.
7 tiểu bang Miền Đông Bắc Hoa Kỳ và 3 tiểu bang Bở Biển Miền Tây đã hình thành các hiệp ước vùng hôm Thứ Hai, 13 tháng 4 nhằm mục đích phối hợp việc mở cửa từ từ các nền kinh tế của họ mà không làm tái phát việc truyền nhiễm vi khuẩn corona khi dịch bệnh này có vẻ đang bắt đầu suy yếu, theo bản tin của Reuters cho biết.
Tổng Thống Donald Trump đổ dầu vào suy đoán về tương lai của Bác Sĩ Anthony Fauci hôm Chủ Nhật, 13 tháng 4, qua twitter kêu gọi sa thải chuyên gia bệnh truyền nhiễm hàng đầu sau khi người này trả lời phỏng vấn của CNN nói rằng nước Mỹ đã có thể làm nhiều hơn để ngăn ngừa sự lây lan của vi khuẩn corona, theo CNN cho biết hôm Chủ Nhật.
Một quận tại trung tâm tiểu bang Georgia giống trong phim “Twister” sau khi trận bão lốc bứng một ngôi nhà và thả xuống trên một con đường hôm Thứ Hai, 13 tháng 4 khi một hệ thống bão chết người thổi qua vùng này.
Tỷ lệ tử vong (số người chết so với tổng số người lây nhiễm corona virus) ở các quốc gia không giống nhau. Trong khi trên thế giới nói chung, tỷ lệ ấy trồi sụt từng ngày giữa khoảng 6.16% và 6.23%, thì tại Hoa Kỳ, tỷ lệ ấy giữa khoảng 3.93% và 4.05% (có thể nói chung là “vào khoảng 4%”). Tại các quốc gia Tây Âu, tỷ lệ ấy khá cao
Thượng Nghị Sĩ Bernie Sanders đã ủng hộ cựu Phó Tổng Thống Joe Biden làm tổng thống hôm Thứ Hai, 13 tháng 4 trong cuộc nói chuyện bằng trực tuyến giữa hai ông, nói với Biden rằng, “chúng tôi cần bạn trong Bạch Ốc.” “Tôi yêu cầu mọi đảng viên Dân Chủ, tôi yêu cầu mọi người độc lập, tôi yêu cầu nhiều đảng viên Cộng Hòa hãy đến với nhau trong cuộc vận động này để ủng hộ ứng cử viên của quý vị, mà tôi hủng hộ.” theo ông Sanders cho biết.
Hoa Kỳ hiện có số ca tử vong cao nhất thế giới do Covid-19, với ít nhất 21.692 người mất mạng vì virus - tính đến chiều Chủ nhật 12/4/20. Người Mỹ sẽ tiếp tục chết với số lượng lớn cho đến khi đất nước chúng ta có được một phản ứng hợp lý, mạch lạc, vững chắc với dịch bệnh. Tổng thống Donald Trump đã thất bại. Mỹ vẫn còn thiếu một kế hoạch cơ bản để kiểm soát dịch bệnh và khởi động lại nền kinh tế. Chỉ cần so sánh đơn giản về số người chết ở Mỹ với các nước châu Á để hiểu quy mô thất bại của chính quyền Trump. Hoa Kỳ hiện có khoảng 62 người chết trên một triệu người. Trong khi đó, theo dữ liệu của Đại học Johns Hopkins, Hồng Kông, Nhật Bản và Đài Loan đều có ít hơn 1 người chết trên một triệu; và Trung Quốc, Hàn Quốc và Singapore có mỗi người chết dưới 5 triệu. Ấn Độ cũng vậy, đã có những hành động quyết liệt với việc khóa chặt toàn quốc bắt đầu vào ngày 24 tháng 3, khi đó mới chỉ có 10 người chết ở một đất nước 1,3 tỷ dân này. Tính đến hôm nay, Ấn Độ có 289 trường hợp tử vong
Một phúc trình mới về những sai lầm của chính phủ Trump trong những ngày đầu của dịch vi khuẩn corona lây lan vào Hoa Kỳ đã được đăng trong báo New York Times hôm Thứ Bảy, 11 tháng 4, nêu chi tiết các trường hợp mới cho thấy TT Trump đã phớt lờ các cảnh báo của các cố vấn của ông ra sao về bệnh lây nhiễm chết người đang tiến tới trước cửa nước Mỹ, theo bản tin CNN cho biết.
Hoa Kỳ đã có thể ngăn chận không số người thiệt mạng từ vi khuẩn corona với việc can thiệp sớm hơn từ các viên chức chính phủ và y tế để kềm chế sự lây lay của vi khuẩn, theo chuyên gia bệnh truyền nhiễm của TT Trump là Bác Sĩ Anthony Fauci cho biết. “Tôi muốn nói, rõ ràng, bạn có thể có lý để nói rằng nếu bạn đã có phương pháp mà đang diễn tiến và bạn đã bắt đầu làm giảm lây lan sớm hơn, thì bạn đã có thể cứu nhiều mạng người. Rõ ràng rồi. Không ai phủ nhận điều đó,” theo BS Fauci cho biết trong cuộc phỏng vấn hôm Chủ Nhật với Jake Tapper của CNN. “Nhưng bạn nói đúng. Tôi muốn nói rõ ràng là nếu chúng ta đã làm ngay từ lúc đầu đóng cửa mọi thứ, thì nó có thể là đã khác đi đôi chút. Nhưng có nhiều cản trở về việc đóng mọi thứ,” theo BS Fauci cho biết. Vào giữa ngày Chủ Nhật, 12 tháng 4, Hoa Kỳ đã có 559,409 trường hợp bị lây vi khuẩn corona và 22,071 người thiệt mạng.
FBI đã phát hiện ra một kế hoạch lừa đảo thúc đẩy bởi vi khuẩn corona quốc tế sau khi hơn 39 triệu mặt nạ được hứa hẹn với một liên đoàn hùng mạnh ở California đại diện cho các nhân viên y tế không bao giờ được giao tới bệnh viện và các nhóm y tế khác trong tiểu bang, theo báo cáo được phổ biến hôm Chủ Nhật, 12 tháng 4 cho biết. Tổ chức Service Employees International Union-United Healthcare Workers West tuyên bố hôm 26 tháng 3 là họ đã xác nhận người phân phố hải ngoại là người muốn bán 39 triệu mặt nạ N95 rất cần đến, theo một thông cáo báo chí cho hay.
Trong Vương Cung Thánh Đường Peter gần như trống vắng, Đức Giáo Hoàng Francis đã cử hành Lễ Phục Sinh trong đơn độc hôm Chủ Nhật, kêu gọi thế giới hãy cùng nhau đương đầu với đại dịch vi khuẩn corona. Thế giới “bị áp lực bởi đại dịch đang thử thách đại gia đình nhân loại chúng ta,” theo Đức Giáo Hoàng Francis phát biểu, được Vatican cung cấp bản dịch cho biết. Trong sự khổ đau, theo ĐGH Francis cho biết, thông điệp mà Đức Chúa Kitô đã đã sống lại là “sự lan truyền của hy vọng.” Đức Giáo Hoàng Francis đã kêu gọi các nhà lãnh đạo chính trị nới lỏng các lệnh trừng phạt quốc tế, mà ngài nói là gây tổn hại cho những công dân dựa vào sự hỗ trợ từ chính phủ của họ. Đức Giáo Hoàng Francis kêu gọi các quốc gia giảm - hoặc thậm chí tha thứ - các khoản nợ của các nước nghèo nhất. Và ngài đã yêu cầu "ngưng bắn trên toàn cầu ngay lập tức" đối tất cả các quốc gia tham gia vào các cuộc xung đột.
Phần lớn người Đức ủng hộ việc mang mặt nạ bảo vệ bắt buộc, ít nhất là ở một số nơi. Theo một cuộc khảo sát của viện nghiên cứu ý kiến ​​YouGov thay mặt cho Cơ quan báo chí Đức, 33 phần trăm muốn một nghĩa vụ giới hạn như ở Áo đối với các siêu thị. 21 phần trăm khác tin rằng mặt nạ bảo vệ nói chung nên được đeo ở nơi công cộng để chống lại sự lây lan của coronavirus. Chỉ có 37% chống lại yêu cầu mặt nạ bảo vệ, 9% không cung cấp bất kỳ thông tin nào. (dpa)
Sống giữa thời mắc dịch – thỉnh thoảng – tôi vẫn nghĩ đến chuyện bị Cô Vy (đột ngột) đến thăm, với đôi chút băn khoăn. Chết thì cũng chả oan uổng gì nữa nhưng mang cuộc đời về không thì kể cũng hơi buồn. Không công danh, sự nghiệp (gì ráo) đã đành; chút hư danh (liệt sỹ, thạc sỹ, tiến sỹ, kẻ sỹ, chiến sỹ, đấu sỹ, dũng sỹ, hàn sỹ, thi sỹ, văn sỹ, họa sỹ … ) cũng không luôn. Bia mộ chỉ ghi vỏn vẹn là “thường dân” ngó cũng kỳ
Một điểm gây tranh cãi là chúng ta có nên mang khẩu trang khi ra ngoài không. Câu trả lời là có, nếu điều ấy không làm cho các nhân viên y tế bị thiếu trang bị. Lý do chính là nhiều người bị nhiễm COVID-19 và tuy họ không có triệu chứng gì, họ vẫn lây lan đến người xung quanh.
Bác Sĩ Monica Peek đi mua sắm tạp hóa tại Phía Nam của thành phố Chicago khi bà ghi nhận một nửa trong số 15 nhân viên thu ngân cửa tiệm không đeo khẩu trang, theo tin CNN hôm Thứ Bảy. Một bác sĩ nội khoa giúp xét nghiệm bệnh nhân vi khuẩn corona tại phòng cấp cứu của Trung Tâm Y Tế Đại Học Chicago, Peek biết những gì đang bị đe dọa. “Này cưng, em cần phải đeo mặt nạ," theo cô nói với người phụ nữ ở quầy thanh toán. "Cô ấy nói, 'Thật sao?' Điều đó thật buồn - tôi biết điều đó nhưng tôi không có. " Chicago, New York và các thành phố lớn khác đang phải vật lộn với sự chênh lệch chủng tộc trong các trường hợp bị lây vi khuẩn corona, với đại dịch phơi bày sự bất bình đẳng kinh tế sâu rộng khiến nó gây tổn hại không đồng đều cho người da đen và người La Tinh.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.