Hôm nay,  

Song ngữ: Right in birth and death / Tìm trong sống chết

03/08/202308:54:00(Xem: 2639)
blank

Song ngữ: Right in birth and death /

Tìm trong sống chết

 

Nguyễn Thế Đăng

 

Sống chết là vấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất, bởi vì đạo Phật không là gì khác hơn là con đường thoát khỏi sanh tử, dập tắt sanh tử khổ đau. Và trái ngược với sanh tử là Niết-bàn, tạm hiểu là thoát khỏi sanh tử.

 

Nói trực tiếp đến sống chết, ở đây chúng ta trích ra một đoạn đối thoại giữa Thiền sư Thiện Hội (?-900) đời thứ hai dòng thiền Vô Ngôn Thông, là thầy và trò là Thiền sư Vân Phong (?-956):

 

Thần Hội thường bảo Vân Phong: “Sống chết là việc lớn, cần phải thấu triệt”.

 

Sư Vân Phong hỏi: “Khi sống chết đến, làm sao tránh thoát?”.

 

Thần Hội đáp: “Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh”.

 

Sư hỏi: “Thế nào là chỗ không sống chết?”.

 

Thần Hội đáp: “Chính trong sống chết hiểu lấy mới được”.

 

Sư Quảng Nghiêm (1122-1190) khi đến nghe Thiền sư Trí Thiền giảng ngữ lục của Thiền sư Tuyết Đậu, đến chuyện Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đến điếu tang và đối đáp về việc sống chết, sư có sở đắc, liền hỏi:

 

“Một câu thoại đầu mà cổ nhân nói ấy, trong ấy lại có Lý (chân lý) hay không?”.

 

Thiền sư Trí Thiền nói: “Ngươi thể hội được Lý ấy chăng?”.

 

Sư Nghiêm hỏi: “Lý không có sanh tử là thế nào?”.

 

Thiền sư Trí Thiền đáp: “Chỉ chính trong sanh tử mới có được nó”.

 

Cả hai câu chuyện đều nêu ra một giải pháp có vẻ nghịch lý. Muốn tránh khỏi sống chết thì phải nắm lấy chỗ không sống chết, mà chỗ không sống chết này lại phải tìm trong chính chỗ sống chết. Chân lý “không có sanh tử” phải tìm chỉ chính trong sanh tử mới có. Tóm lại, muốn giải thoát khỏi sanh tử thì phải vào trong sanh tử.

 

 

“Chỗ không sống chết, chân lý không có sanh tử” này chính là tánh Không của sanh tử; tánh Không của sanh tử không có ngoài sanh tử, phải tìm trong chính sanh tử. Tánh Không của sanh tử là sự giải thoát cho sanh tử, và sự giải thoát này ở ngay trong chính sanh tử.

 

Bản tánh của sanh tử là tánh Không, cho nên muốn thoát khỏi những hiện tướng của sanh tử, phải tìm thấy bản tánh Không của những hiện tướng sanh tử ấy.

 

Kinh Duy-ma-cật, phẩm Nhập Pháp môn Bất nhị nói:

 

“Bồ-tát Na La Diên nói: ‘Thế gian và xuất thế gian là hai. Thế gian tánh Không, tức đó là xuất thế gian, trong đó không có đi vào không có ra khỏi, không tiến bộ,không lui sụt.Đó là vào pháp môn không hai’.

 

Bồ-tát Thiện Ý nói: ‘Sanh tử và Niết-bàn là hai. Nếu thấy tánh sanh tử, thì không có sanh tử, không có trói buộc, không có giải thoát, không sanh không diệt. Hiểu như vậy, đó là vào pháp môn không hai’.

 

“Tánh sanh tử thì không có sanh tử, không có trói buộc, không có giải thoát, không sanh không diệt” nghĩa là tánh sanh tử là Niết-bàn, và Niết-bàn ấy cũng là tánh Không. Như thế, muốn tránh khỏi sanh tử thì phải đi vào chính sanh tử để tìm thấy bản tánh của sanh tử, và bản tánh của sanh tử là Niết-bàn tánh Không.

 

Sự sống chết vô thường không chỉ nằm bên ngoài chúng ta, nơi những sự vật mà giác quan chúng ta dễ dàng tri giác. Sống chết nằm ngay nơi chúng ta, nơi tâm chúng ta: đó là sự sống chết của những tư tưởng tạo thành tâm chúng ta. Một tư tưởng cũng sống và chết. Nó sanh ra (sanh), tồn tại ở đó (trụ) và tiêu tan mất (diệt). Tâm chúng ta không có ngoài những tư tưởng, nên khi những tư tưởng sống chết thì tâm chúng ta cũng sống chết.

 

Đạo Phật thường hay nói, “Tất cả do tâm tạo”. Kinh Pháp cú, câu đầu tiên là: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo”. Thế giới, cuộc đời như mỗi người kinh nghiệm, là do tâm họ tạo ra. Thế giới và cuộc sống con người khác với thế giới và cuộc sống của con vật, sự khác biệt đó là sự khác biệt của tâm của con người và con vật.

 

Khi đạo Phật nói “Ba cõi duy chỉ là tâm”, “Tất cả do tâm tạo”, thì khi ba cõi là sống chết, là sanh tử có nghĩa là tâm là sống chết, là sanh tử. Sự sống chết, sanh tử của tâm đã tạo ra sự sống chết, sanh tử của thế giới và cuộc đời. Cho nên để thoát khỏi sự sống chết của thế giới và cuộc đời, phải thoát khỏi sự sống chết của tâm, hay sự sống chết của các tư tưởng.

 

Áp dụng điều hai vị Thiền sư ở trên đã chỉ dạy, chúng ta thấy rằng muốn tránh khỏi sự sống chết của những tư tưởng phải tìm trong chính sự sống chết của tư tưởng. Chúng ta phải tìm thấy và sống trong “chỗ không sống chết”, “chân lý không có sống chết” của chính những tư tưởng sống chết trong từng khoảnh khắc.

 

Ở đây chúng ta chỉ bàn đến một cách trong rất nhiều phương pháp để rõ tâm (biện tâm – chữ của vua Trần Thái Tông trong Khóa hư lục), bởi vì tất cả các tông phái, các pháp môn Phật giáo đều hướng đến mục đích này.

 

Quán chiếu một tư tưởng, chúng ta thấy nó không phải tự sanh ra, vì nếu nó tự sanh ra thì trước đã có nó. Nó cũng không sanh ra từ một tư tưởng khác, vì trước đó không có một tư tưởng khác nào cả. Nó cũng không sanh ra từ chính nó và cái khác cọng lại, vì đơn giản trước đó chưa có nó và cái khác. Nó cũng không phải tự nhiên sanh ra mà không có nhân duyên. Quán sát kỹ lưỡng, lập đi lập lại chúng ta sẽ thấy ra thật tánh của nó, như ngài Long Thọ đã nói trong Trung luận, phẩm thứ nhất, câu 3:

 

Các pháp chẳng tự sanh,

Chẳng từ cái khác sanh,

Chẳng cùng, chẳng không nhân, Thế nên biết Vô sanh.

 

Thật tánh của những tư tưởng là vô sanh, không thật có sanh ra. Thấy được như vậy, những tư tưởng không còn trói buộc, chúng tự giải thoát. Và khi những tư tưởng của chúng ta tự giải thoát thì thế giới sanh tử như chúng ta thấy cũng tự giải thoát.

 

Khi khảo sát kỹ lưỡng một tư tưởng, hay còn gọi là một tâm, sanh ra, chúng ta không thấy chỗ sanh ra của tư tưởng ấy, của tâm ấy. Khi tồn tại, nó trụ chỗ nào? Và khi diệt mất, nó diệt mất chỗ nào? Vì không thấy chỗ sanh, trụ, diệt của một tâm niệm, một tư tưởng, nên bằng thiền định và thiền quán chúng ta thấy nó sanh, trụ, diệt trong một khoảng không gian bao la đến vô hạn. Bởi thế, kinh thường nói “tâm như hư không”, nghĩa là khoảng không gian

 

cho tư tưởng hay tâm niệm sanh, trụ, diệt thì bao la không biên bờ như không gian, như hư không.

 

Không gian bao la vô hạn cho hoạt động sanh, trụ, diệt của tư tưởng hay của tâm được gọi là bản tâm hay bản tánh của tâm. Đó là nơi cho tâm sanh ra và tâm diệt mất. Đó là nền tảng vô hạn của tâm, không gian vô hạn cho tâm.

 

Như không gian, bản tánh của tâm, nền tảng của tâm thì vô hạn, không có hình tướng, màu sắc, không thuộc về nhận thức của giác quan và ý thức. Cái đó là tánh Không. Bản tánh của tâm là tánh Không của tâm.

 

Như không gian của bầu trời là nơi cho các đám mây tan biến, bầu trời là nơi giải thoát của các đám mây. Như đại dương là nơi cho các làn sóng tiêu tan, đại dương là nơi giải thoát của các làn sóng. Cũng thế không gian của tâm, tánh Không của tâm là nơi giải thoát cho các tư tưởng, các tâm, các phiền não.

 

Như không gian bầu trời nằm trong chính các đám mây, như đại dương nằm trong chính các làn sóng, tánh Không, sự giải thoát cho mọi loại tâm, nằm trong chính các tư tưởng, các phiền não. Tánh Không của tâm là “chỗ không sống chết” cho tất cả mọi tâm sống chết, là “lý không có sanh tử” cho mọi sanh tử của tâm, và tánh Không của tâm nằm ngay nơi từng tư tưởng, từng phiền não, từng mỗi loại tâm.

 

Tánh Không của tâm không phải là một hư không không có gì cả, nó có ánh sáng. Thậm chí ánh sáng là bản tánh của tâm, như trong Nikaya có nói: “Tâm này là sáng chói, nhưng tâm này bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào”.

 

(Kinh Tăng chi bộ, phẩm Búng ngón tay, phẩm Đặt Đúng hướng và Trong sáng)

 

Bản tánh của tâm là tánh Không và sáng chói, đó là nền tảng giải thoát cho mọi thứ tâm sanh tử và nó nằm ngay nơi mọi thứ tâm sanh tử.

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a34514/tim-trong-song-chet-nguyen-the-dang-

 

.... o ....

 

Right in birth and death

 

Author: Nguyễn Thế Đăng

Translated by Nguyên Giác

 

 

Birth and death are the most significant challenges in human life. In Buddhism, the terms "birth" and "death" are frequently mentioned, as Buddhism is essentially a path to transcend birth and death and alleviate the suffering associated with them. And the opposite of birth and death is Nirvana, roughly understood as being liberated from the cycle of birth and death.

  

Speaking directly about birth and death, we quote a dialogue between Zen Master Thiện Hội (?-900), the second generation of the Vô Ngôn Thông Zen lineage, who was a teacher, and his student, Zen Master Vân Phong (?-956).

 

Thần Hội often said to Vân Phong, "Birth and death are significant matters that require thorough understanding."

Vân Phong asked, "How can we escape when birth and death come?"

"Hold on to the realm beyond birth and death," replied Thần Hội.

Vân Phong asked, "What is the place of neither birth nor death?"

"It is in the realm of birth and death that we must strive to comprehend it fully and embrace it," replied Thần Hội.

 

Listening to Zen Master Trí Thiền discuss Zen Master Tuyết Đậu's book of records and hearing about Đạo Ngô and Tiệm Nguyên attending the funeral and discussing birth and death, Monk Quảng Nghiêm (1122-1190) appeared to grasp something and subsequently posed a question.

 

"Is there a principle in that realm before words are formed, as the ancient masters have indicated?"

Zen master Trí Thiền asked, "Can you comprehend that principle?"

Quảng Nghiêm asked, "What is the principle of being without birth and without death?"

Zen master Trí Thiền replied, "It is only through birth and death that it can be attained."

 

Both stories present a seemingly paradoxical solution. To avoid birth and death, one must grasp the place of no birth and no death, and this place of no birth and no death must be sought in the very place of birth and death. The truth that "there is no birth and no death" must be found within birth and death themselves. In short, to be liberated from birth and death, one must enter birth and death.

  

This “place of no birth and no death, where the truth of no birth and no death is revealed” is the inherent emptiness of birth and death. The inherent emptiness of birth and death does not exist outside of the realm of birth and death; it is only found within birth and death itself. The inherent emptiness of birth and death is the key to freeing oneself from the cycle of birth and death. This liberation can be found within the very process of birth and death.

  

Because the nature of birth and death is inherent emptiness, to be liberated from the manifestations of birth and death, one must discover the inherent emptiness within those manifestations.

  

The Vimalakirti Sutra says in the chapter Nhập Pháp môn Bất nhị (Entering through the non-dual door), “The Bodhisattva Na La Diên says: 'The world and the transcendent world are two. The world has an inherent emptiness; thus, it is the transcendent world, in which there is no entry, no exit, no progress, or no regression. That means entering through the gate of non-dual dharma.'”

  

The Bodhisattva Thiện Ý said: "The cycles of birth and death and Nirvana are two. If you see the nature of birth and death, then there is no birth and death, no bondage, no liberation, no birth, and no death. Thus, it is entering the non-dual dharma."

 

"The nature of birth and death is truly neither birth nor death, neither bondage nor liberation, neither appearing nor disappearing"—this implies that the nature of birth and death is Nirvana and that Nirvana is also characterized by inherent emptiness. Thus, to avoid birth and death, one must go into birth and death to find the nature of birth and death, and the nature of birth and death is inherent emptiness that leads to Nirvana.

  

Not only do impermanent birth and death exist outside of us, but they are also present in things that are easily perceptible to our senses. Birth and death are inherent within us, within our minds; it is the birth and death of thoughts that constitute our minds. A thought also experiences birth and death. It is born (sinh), stays (trụ), and then perishes (diệt). Our mind does not exist apart from thoughts. Therefore, when thoughts undergo birth and death, our mind also undergoes birth and death.

  

Buddhism often says, "It's all mind-made." In the Dhammapada, the first sentence is: "All things are preceded, surpassed, and created by the mind." The world and life, as each person experiences them, are created by their minds. The world and human life are distinct from the world and lives of animals, and this distinction lies in the presence of a mind in humans that animals do not possess.

  

When Buddhism says that "the three realms are only mind" or says "All is created by the mind," then the three realms are life and cessation, birth and death; it means that mind is life and cessation, birth and death. Life and cessation, the birth and death of the mind, created life and cessation, the birth and death of the world, and life. So to be free from the life and cessation of the world and life, one must be free from the life and cessation of the mind, or the life and cessation of thoughts.

 

Applying the teachings of the two Zen masters mentioned above, we come to understand that in order to transcend the cycle of thoughts arising and ceasing, we must discover freedom within the very process of thoughts arising and ceasing. We must seek and embrace the state of "no birth and no death," where the concept of "truth" transcends the boundaries of birth and death, encompassing the ever-changing thoughts that arise and pass away in every moment.

  

Here, we will only discuss one of the many methods to see clearly the mind ("biện tâm"—words of King Tran Thai Tong in the book "Khóa Hư Lục"), because all Buddhist sects and dharma gates are focused on achieving this goal.

  

Observing a thought, we see that it is not self-generated, because if it were, it would have been there before. It also does not arise from another thought because there was no other thought before. Nor does it arise from itself and from the other combined, for it simply did not exist before and there was no other. It is also not naturally born without causes and conditions. Observing closely and continuously, we will see its true nature, as Nagarjuna said in the Madhyamaka, first chapter, third sentence:

 

Dharmas are not self-born,

nor are they born from another,

nor are they born together with another,

nor are they without a cause.

So, the dharmas are called "unborn."

 

The true nature of thoughts is unborn because there is no real birth. Seeing this, the thoughts no longer have the power to bind, and then the thoughts liberate themselves. And when our thoughts liberate themselves, the world of birth and death, as we see it, also liberates itself.

 

When we carefully observe a thought or a consciousness when it arises, we do not see the birthplace of that thought or that mind. When that thought exists, where does it stay? And when it disappears, where does it disappear? Because we do not see the birth, abiding, and cessation of a single thought, by meditation and contemplation we see it arising, remaining, and passing away in a vast to infinite space. Therefore, the sutras often say "mind is like space," meaning that the space for the mind or for a thought to arise, stay, and die is boundless, just like space, like the sky.

  

The vast, infinite space for the arising, abiding, and passing away of consciousness, or mind, is called the mind-nature or the nature of the mind. That is the realm in which the mind arises and passes away. That is the boundless realm of the mind, the infinite space of the mind.

  

Just as space, the nature of the mind is limitless. It is formless, colorless, and does not belong to the realm of senses or conscious awareness. That is the nature of emptiness. The nature of the mind is its inherent emptiness.

 

Just as the space of the sky is the place for the clouds to disappear, the sky is the place for the deliverance of clouds. Just as the ocean is the place for the waves to disappear, the ocean is the place for the deliverance of waves. Likewise, the space of the mind, i.e., the emptiness of the mind, is the place for the deliverance of thoughts, consciousnesses, and even defilement.

  

Like space, the sky lies within the clouds themselves, just as the ocean lies within the waves themselves. Emptiness, which is the liberation of all types of mind, lies within every thought and within every defilement. The emptiness of mind is the "realm of no birth and no death" for each mind of birth and death, the "principle of no birth and no death" for all birth and death of the mind, and the emptiness of mind lies right there, in every thought, in every defilement, and in every type of mind.

  

The emptiness of the mind is not a kind of nothingness; it has light. Even light is the nature of the mind, as stated in The Chapter on a Finger-Snap in Aṅguttara Nikaya: "Luminous, monks, is the mind. And it is defiled by incoming defilements." (AN 1.51–60 Sutta, translated by Thanissaro Bhikkhu)

 

The nature of the mind is inherent emptiness and luminosity; that nature is the liberating ground for all minds of birth and death, and it lies at the heart of all minds of birth and death.

 

.... o ....



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ bao năm nay, giấc ngủ đông chỉ tồn tại trong tiểu thuyết và điện ảnh – từ 2001: A Space Odyssey đến Passengers. Nhưng ở Pittsburgh, các nhà khoa học đang từng bước biến viễn cảnh ấy thành thật. Trong một căn phòng tối của Phòng Thí Nghiệm Sinh Lý Ứng Dụng, bác sĩ Clifton Callaway – chuyên gia tim mạch và hạ thân nhiệt nhân tạo – đã đưa một người tình nguyện vào trạng thái mà ông gọi là “giấc ngủ chạng vạng.” Sau 18 giờ dùng thuốc an thần đặc biệt dexmedetomidine, thân nhiệt người ấy hạ từ 98,6°F xuống 95°F. Nhịp tim và huyết áp đều giảm, tốc độ trao đổi chất hạ 20%. Nhưng người ấy vẫn đủ tỉnh táo để đứng dậy, đi vệ sinh, gọi ăn – không cần máy thở hay dây truyền dịch.
Giới khoa học vừa đạt thêm một bước tiến quan trọng trong cuộc chiến chống ung thư: phát hiện một loại protein có thể điều chỉnh để khiến các tế bào ung thư tự hủy diệt từ bên trong. Hai nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Nature đã tập trung làm rõ vai trò của một enzyme mang tên ferroptosis suppressor protein 1 (FSP1). Enzyme này là “lá chắn” quan trọng giúp tế bào tránh một kiểu chết đặc biệt (bị phân rã từ trong ra ngoài). Khi loại bỏ lá chắn này, khả năng sống sót của tế bào giảm mạnh; và nếu đó là tế bào ung thư, khối u sẽ phát triển chậm lại đáng kể.
Nếu muốn “nâng cấp phòng tắm”, bạn có thể chuẩn bị tham gia đấu giá… một chiếc bồn cầu bằng vàng ròng. Tác phẩm nặng hơn 100 ký, chế tác từ vàng 18 karat, là sáng tạo của nghệ sĩ Ý Maurizio Cattelan, người nổi tiếng với các tác phẩm châm biếm và gây tranh cãi. Ông cũng là tác giả của Comedian – trái chuối dán băng keo lên tường, từng bán được 6,2 triệu đô cho một nhà đầu tư tiền ảo. Tác phẩm lần này mang tên America (Nước Mỹ), sẽ được nhà đấu giá Sotheby’s đưa ra vào ngày 18 tháng 11, với giá khởi điểm khoảng 10 triệu đô, tùy theo giá vàng trong ngày. Theo Wall Street Journal, Sotheby’s dự đoán mức giá cuối cùng sẽ vượt xa con số ấy.
Sở Di Trú vẫn tiếp tục hoạt động trong thời gian chính phủ liên bang đóng cửa, tuy nhiên một số hoạt động nhất định, chẳng hạn như phỏng vấn và lễ nhập tịch có thể bị trì hoãn. Phần lớn các đơn nộp cho Sở Di Trú vẫn sẽ được duyệt xét như bình thường.
Gia đình chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin cùng quý thân bằng quyến thuộc và bạn hữu gần xa: Mẹ, Bà Nội, Bà Ngoại, Bà Cố của chúng tôi là: Bà Quả Phụ ĐỖ ĐÌNH HOÀNH Khuê Danh NGUYỄN THỊ HAI Pháp Danh Diệu Thanh Sinh ngày 15 tháng 8 năm 1933 tại Việt Nam Đã từ trần vào lúc 4 giờ sáng ngày 12 tháng 11 năm 2025 (nhằm ngày 23 tháng 9 năm Ất Ty.) tại Bệnh Viện St Mary Long Beach California Hưởng Thọ 93 tuổi
J351. Manikundala Jātaka -- Mọi thứ đều thay đổi - niềm vui chuyển thành nỗi buồn, và cuộc sống luôn thay đổi và mất mát. Tóm tắt: Một cận thần vô tội bị giam nhưng sau đó được nhà vua thả ra và tôn vinh. Đức Phật kể lại câu chuyện về một người đàn ông có liên quan đến cung điện Benares, người bị lưu đày và sau đó thuyết phục một vị vua nước ngoài tấn công đất nước cũ của mình. Thay vì gây ra cái chết của người khác, vua Benares đã chọn đầu hàng một cách tự nguyện. Cảm kích trước đức hạnh của ông, vị vua chiến thắng đã nhượng bộ và trả tự do cho ông.
- Washington Mở Cửa Trở Lại Sau Hơn 40 Ngày Tê Liệt, Nhưng Hệ Thống Liên Bang Cần Thời Gian Để Phục Hồi. - Katie Wilson Đắc Cử Thị Trưởng Seattle, Đánh Dấu Làn Sóng Cấp Tiến Mới. - Giám Mục Hoa Kỳ Chính Thức Cấm Điều Trị Chuyển Giới Tại Các Bệnh Viện Công Giáo. - Donald Trump Phản Ứng Sau Khi Loạt Email Mới Của Jeffrey Epstein Được Công Bố. - Hàng Trăm Người Bị Bắt Trong Chiến Dịch Di Trú Chicago Có Thể Được Tại Ngoại. - Úc Bắt Hai Mẹ Con Người Việt Bị Cáo Buộc Giật Tiền 46 Triệu Đô La Qua Trò “Coi Bói”. - Anh Tạm Ngưng Chia Sẻ Tin Tình Báo Về Tàu Chở Ma Túy Vì Lo Ngại Các Cuộc Không Kích Của Mỹ. - Hạ Viện Sẽ Biểu Quyết Hủy Điều Khoản Cho Phép Thượng Nghị Sĩ Kiện Về Các Cuộc Lục Soát Liên Quan Đến Ngày 6 Tháng 1. - Điều Khoản Lạ Lén Lút Chen Vào Dự Luật Mở Cửa Lại Chính Phủ. - Xì Ammonia Ở Oklahoma: Hơn Ba Chục Người Nhập Viện, Hàng Trăm Phải Di Tản. - Các Cựu Lãnh Đạo FCC Kêu Gọi Bãi Bỏ Quy Định “Bóp Méo Tin Tức”. - Marco Rubio: Hoa Kỳ Có Thể Từ Chối Visa Vì
Với số phiếu 222-209, Hạ Viện tối thứ Tư đã thông qua dự luật chi tiêu để mở lại chính phủ. Khoảng 9 giờ 45 phút tối nay, Trump sẽ ký, chấm dứt thời gian đóng cửa chính phủ dài nhất trong lịch sử quốc gia, 43 ngày.
Tại phiên họp thường niên mùa thu, hàng giáo phẩm Công Giáo Hoa Kỳ đã thông qua một tuyên bố đặc biệt về di dân, với số phiếu gần như tuyệt đối. Đây là hành động mục vụ mạnh mẽ nhất của các giám mục trong nhiều năm qua, nhắm đến chiến dịch trục xuất quy mô lớn của chính quyền Trump. Tuyên bố không nêu đích danh Tổng thống Trump. Nhưng nội dung phê phán rõ rệt các biện pháp cưỡng chế hiện hành và đưa ra lập luận luân lý: Giáo Hội Công Giáo tại Hoa Kỳ phản đối mạnh mẽ đường lối cưỡng chế di dân đang được áp dụng.
- Hạ Viện Công Bố Email Epstein: ‘Trump Đã Ở Nhà Tôi Nhiều Giờ với Một Nạn Nhân (tình dục)'. - Hạ Viện Tin Tưởng Sẽ Bỏ Phiếu Mở Cửa Chính Phủ Tối Nay. - Cháu Trai Của Cố Tổng Thống JFK Ứng Cử Vào Quốc Hội 2026. - Lưỡng Đảng Dự Đoán Hôm Nay Sẽ Có Đủ Chữ Ký Công Khai Hồ Sơ Epstein. - Trump: ‘Nước Mỹ Thiếu Nhân Tài’. - Đổi Tên Bộ Quốc Phòng Tốn Khoảng $2 tỷ. - Hơn 850 Chuyến Bay Ở Mỹ Bị Hủy Đầu Ngày Thứ Tư. - Trump Thúc Giục Israel Ân Xá Netanyahu. - Việt Nam Hy Vọng Sớm Đạt Thỏa Thuận Thuế Quan.
- Mamdani: sẽ phone cho Trump để NYC không bị Trump trù dập - Nghị viên NYC mời Netanyahu tới NYC vào tết tây 2026, thách Mamdani dám bắt - Nhiều dân gốc Do thái bị bạn bè rầy vì bầu cho Mamdani làm thị trường NYC - Thống đốc NY không giúp Mamdani vụ miễn phí xe buýt NYC - 100 triệu đôla đổ vào bất động sản Florida khi hàng trăm ngàn người giàu NYC di tản để né thuế - CEO của Bank of America muốn giúp Mamdani
- Trump Xử Lý Khủng Hoảng Nhân Sự Hàng Không Như Một ‘Gameshow’. - Cựu Tổng Thống Obama Bất Ngờ Chào Đón Cựu Chiến Binh Ở Washington. - Trump Gõ Cửa TCPV Đòi Lật Phán Quyết Chiến Thắng Của Nhà Văn E. Jean Carroll. - Lãnh Đạo Hạ Viện Chuck Schumer Đối Diện Làn Sóng ‘Truất Phế’. - Utah Bác Bỏ Kế Hoạch Vẽ Lại Bản Đồ Quốc Hội Của Đảng Cộng Hòa. - FDA Gỡ Bỏ Cảnh Báo Lâu Nay Trên Thuốc Mãn Kinh, Bất Chấp Lo Ngại Từ Chuyên Gia. - Đánh bom tự sát ở thủ đô Pakistan, 12 người thiệt mạng. - Chính Phủ Anh Ở Giữa Cuộc Chiến Trump Và BBC. ‘001’ Của Squid Game Phần 1 Thoát Án Quấy Rối Tình Dục
J341. Kandari Jātaka -- Không chung thủy sẽ dẫn đến nhiều hậu quả. Tóm tắt: Hoàng hậu Kinnarā, vợ của vua Kaṇḍari xứ Benares, ngoại tình với một người đàn ông tàn tật sống trên cây. Khi bị phát hiện, nhà vua muốn giết chết bà, nhưng vị sư của ông, Pañcālacaṇḍa, giải thích rằng hành vi này đơn giản là bản chất của phụ nữ, và lưu ý rằng ngay cả những phụ nữ trẻ trên thế gian cũng hành động tương tự.
Báo The Independent ghi rằng, theo một báo cáo mới, Bộ Tư pháp đã bị mất nhân sự dưới thời Tổng thống Donald Trump, với hàng ngàn luật sư rời đi và rất ít người được tuyển dụng để thay thế. Kể từ tháng 1, gần 5.500 nhân viên lâu năm của Bộ Tư pháp đã nghỉ việc, nhận tiền bồi thường hoặc bị sa thải, theo Justice Connection, một nhóm vận động bao gồm các cựu nhân viên của Bộ.
"Tuyển tập II chân dung văn nghệ sĩ" là một công trình mới của Nhà văn Ngô Thế Vinh, giới thiệu 18 văn nghệ sĩ và nhà văn hoá thành danh thời trước 1975 ở miền Nam Việt Nam. Những tác phẩm, chân dung và chứng từ trong tuyển tập này minh chứng cho một nền văn nghệ nhân bản, năng động và đột phá đã bị bức tử sau biến cố 30/4/1975. Do đó, tuyển tập là một nguồn tham khảo quí báu về di sản của nền văn nghệ và giáo dục thời Việt Nam Cộng Hoà.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.