Hôm nay,  

Song ngữ: Right in birth and death / Tìm trong sống chết

03/08/202308:54:00(Xem: 3077)
blank

Song ngữ: Right in birth and death /

Tìm trong sống chết

 

Nguyễn Thế Đăng

 

Sống chết là vấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất, bởi vì đạo Phật không là gì khác hơn là con đường thoát khỏi sanh tử, dập tắt sanh tử khổ đau. Và trái ngược với sanh tử là Niết-bàn, tạm hiểu là thoát khỏi sanh tử.

 

Nói trực tiếp đến sống chết, ở đây chúng ta trích ra một đoạn đối thoại giữa Thiền sư Thiện Hội (?-900) đời thứ hai dòng thiền Vô Ngôn Thông, là thầy và trò là Thiền sư Vân Phong (?-956):

 

Thần Hội thường bảo Vân Phong: “Sống chết là việc lớn, cần phải thấu triệt”.

 

Sư Vân Phong hỏi: “Khi sống chết đến, làm sao tránh thoát?”.

 

Thần Hội đáp: “Hãy nắm lấy chỗ không sống chết mà tránh”.

 

Sư hỏi: “Thế nào là chỗ không sống chết?”.

 

Thần Hội đáp: “Chính trong sống chết hiểu lấy mới được”.

 

Sư Quảng Nghiêm (1122-1190) khi đến nghe Thiền sư Trí Thiền giảng ngữ lục của Thiền sư Tuyết Đậu, đến chuyện Đạo Ngô và Tiệm Nguyên đến điếu tang và đối đáp về việc sống chết, sư có sở đắc, liền hỏi:

 

“Một câu thoại đầu mà cổ nhân nói ấy, trong ấy lại có Lý (chân lý) hay không?”.

 

Thiền sư Trí Thiền nói: “Ngươi thể hội được Lý ấy chăng?”.

 

Sư Nghiêm hỏi: “Lý không có sanh tử là thế nào?”.

 

Thiền sư Trí Thiền đáp: “Chỉ chính trong sanh tử mới có được nó”.

 

Cả hai câu chuyện đều nêu ra một giải pháp có vẻ nghịch lý. Muốn tránh khỏi sống chết thì phải nắm lấy chỗ không sống chết, mà chỗ không sống chết này lại phải tìm trong chính chỗ sống chết. Chân lý “không có sanh tử” phải tìm chỉ chính trong sanh tử mới có. Tóm lại, muốn giải thoát khỏi sanh tử thì phải vào trong sanh tử.

 

 

“Chỗ không sống chết, chân lý không có sanh tử” này chính là tánh Không của sanh tử; tánh Không của sanh tử không có ngoài sanh tử, phải tìm trong chính sanh tử. Tánh Không của sanh tử là sự giải thoát cho sanh tử, và sự giải thoát này ở ngay trong chính sanh tử.

 

Bản tánh của sanh tử là tánh Không, cho nên muốn thoát khỏi những hiện tướng của sanh tử, phải tìm thấy bản tánh Không của những hiện tướng sanh tử ấy.

 

Kinh Duy-ma-cật, phẩm Nhập Pháp môn Bất nhị nói:

 

“Bồ-tát Na La Diên nói: ‘Thế gian và xuất thế gian là hai. Thế gian tánh Không, tức đó là xuất thế gian, trong đó không có đi vào không có ra khỏi, không tiến bộ,không lui sụt.Đó là vào pháp môn không hai’.

 

Bồ-tát Thiện Ý nói: ‘Sanh tử và Niết-bàn là hai. Nếu thấy tánh sanh tử, thì không có sanh tử, không có trói buộc, không có giải thoát, không sanh không diệt. Hiểu như vậy, đó là vào pháp môn không hai’.

 

“Tánh sanh tử thì không có sanh tử, không có trói buộc, không có giải thoát, không sanh không diệt” nghĩa là tánh sanh tử là Niết-bàn, và Niết-bàn ấy cũng là tánh Không. Như thế, muốn tránh khỏi sanh tử thì phải đi vào chính sanh tử để tìm thấy bản tánh của sanh tử, và bản tánh của sanh tử là Niết-bàn tánh Không.

 

Sự sống chết vô thường không chỉ nằm bên ngoài chúng ta, nơi những sự vật mà giác quan chúng ta dễ dàng tri giác. Sống chết nằm ngay nơi chúng ta, nơi tâm chúng ta: đó là sự sống chết của những tư tưởng tạo thành tâm chúng ta. Một tư tưởng cũng sống và chết. Nó sanh ra (sanh), tồn tại ở đó (trụ) và tiêu tan mất (diệt). Tâm chúng ta không có ngoài những tư tưởng, nên khi những tư tưởng sống chết thì tâm chúng ta cũng sống chết.

 

Đạo Phật thường hay nói, “Tất cả do tâm tạo”. Kinh Pháp cú, câu đầu tiên là: “Tâm dẫn đầu các pháp, tâm làm chủ, tâm tạo”. Thế giới, cuộc đời như mỗi người kinh nghiệm, là do tâm họ tạo ra. Thế giới và cuộc sống con người khác với thế giới và cuộc sống của con vật, sự khác biệt đó là sự khác biệt của tâm của con người và con vật.

 

Khi đạo Phật nói “Ba cõi duy chỉ là tâm”, “Tất cả do tâm tạo”, thì khi ba cõi là sống chết, là sanh tử có nghĩa là tâm là sống chết, là sanh tử. Sự sống chết, sanh tử của tâm đã tạo ra sự sống chết, sanh tử của thế giới và cuộc đời. Cho nên để thoát khỏi sự sống chết của thế giới và cuộc đời, phải thoát khỏi sự sống chết của tâm, hay sự sống chết của các tư tưởng.

 

Áp dụng điều hai vị Thiền sư ở trên đã chỉ dạy, chúng ta thấy rằng muốn tránh khỏi sự sống chết của những tư tưởng phải tìm trong chính sự sống chết của tư tưởng. Chúng ta phải tìm thấy và sống trong “chỗ không sống chết”, “chân lý không có sống chết” của chính những tư tưởng sống chết trong từng khoảnh khắc.

 

Ở đây chúng ta chỉ bàn đến một cách trong rất nhiều phương pháp để rõ tâm (biện tâm – chữ của vua Trần Thái Tông trong Khóa hư lục), bởi vì tất cả các tông phái, các pháp môn Phật giáo đều hướng đến mục đích này.

 

Quán chiếu một tư tưởng, chúng ta thấy nó không phải tự sanh ra, vì nếu nó tự sanh ra thì trước đã có nó. Nó cũng không sanh ra từ một tư tưởng khác, vì trước đó không có một tư tưởng khác nào cả. Nó cũng không sanh ra từ chính nó và cái khác cọng lại, vì đơn giản trước đó chưa có nó và cái khác. Nó cũng không phải tự nhiên sanh ra mà không có nhân duyên. Quán sát kỹ lưỡng, lập đi lập lại chúng ta sẽ thấy ra thật tánh của nó, như ngài Long Thọ đã nói trong Trung luận, phẩm thứ nhất, câu 3:

 

Các pháp chẳng tự sanh,

Chẳng từ cái khác sanh,

Chẳng cùng, chẳng không nhân, Thế nên biết Vô sanh.

 

Thật tánh của những tư tưởng là vô sanh, không thật có sanh ra. Thấy được như vậy, những tư tưởng không còn trói buộc, chúng tự giải thoát. Và khi những tư tưởng của chúng ta tự giải thoát thì thế giới sanh tử như chúng ta thấy cũng tự giải thoát.

 

Khi khảo sát kỹ lưỡng một tư tưởng, hay còn gọi là một tâm, sanh ra, chúng ta không thấy chỗ sanh ra của tư tưởng ấy, của tâm ấy. Khi tồn tại, nó trụ chỗ nào? Và khi diệt mất, nó diệt mất chỗ nào? Vì không thấy chỗ sanh, trụ, diệt của một tâm niệm, một tư tưởng, nên bằng thiền định và thiền quán chúng ta thấy nó sanh, trụ, diệt trong một khoảng không gian bao la đến vô hạn. Bởi thế, kinh thường nói “tâm như hư không”, nghĩa là khoảng không gian

 

cho tư tưởng hay tâm niệm sanh, trụ, diệt thì bao la không biên bờ như không gian, như hư không.

 

Không gian bao la vô hạn cho hoạt động sanh, trụ, diệt của tư tưởng hay của tâm được gọi là bản tâm hay bản tánh của tâm. Đó là nơi cho tâm sanh ra và tâm diệt mất. Đó là nền tảng vô hạn của tâm, không gian vô hạn cho tâm.

 

Như không gian, bản tánh của tâm, nền tảng của tâm thì vô hạn, không có hình tướng, màu sắc, không thuộc về nhận thức của giác quan và ý thức. Cái đó là tánh Không. Bản tánh của tâm là tánh Không của tâm.

 

Như không gian của bầu trời là nơi cho các đám mây tan biến, bầu trời là nơi giải thoát của các đám mây. Như đại dương là nơi cho các làn sóng tiêu tan, đại dương là nơi giải thoát của các làn sóng. Cũng thế không gian của tâm, tánh Không của tâm là nơi giải thoát cho các tư tưởng, các tâm, các phiền não.

 

Như không gian bầu trời nằm trong chính các đám mây, như đại dương nằm trong chính các làn sóng, tánh Không, sự giải thoát cho mọi loại tâm, nằm trong chính các tư tưởng, các phiền não. Tánh Không của tâm là “chỗ không sống chết” cho tất cả mọi tâm sống chết, là “lý không có sanh tử” cho mọi sanh tử của tâm, và tánh Không của tâm nằm ngay nơi từng tư tưởng, từng phiền não, từng mỗi loại tâm.

 

Tánh Không của tâm không phải là một hư không không có gì cả, nó có ánh sáng. Thậm chí ánh sáng là bản tánh của tâm, như trong Nikaya có nói: “Tâm này là sáng chói, nhưng tâm này bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào”.

 

(Kinh Tăng chi bộ, phẩm Búng ngón tay, phẩm Đặt Đúng hướng và Trong sáng)

 

Bản tánh của tâm là tánh Không và sáng chói, đó là nền tảng giải thoát cho mọi thứ tâm sanh tử và nó nằm ngay nơi mọi thứ tâm sanh tử.

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/a34514/tim-trong-song-chet-nguyen-the-dang-

 

.... o ....

 

Right in birth and death

 

Author: Nguyễn Thế Đăng

Translated by Nguyên Giác

 

 

Birth and death are the most significant challenges in human life. In Buddhism, the terms "birth" and "death" are frequently mentioned, as Buddhism is essentially a path to transcend birth and death and alleviate the suffering associated with them. And the opposite of birth and death is Nirvana, roughly understood as being liberated from the cycle of birth and death.

  

Speaking directly about birth and death, we quote a dialogue between Zen Master Thiện Hội (?-900), the second generation of the Vô Ngôn Thông Zen lineage, who was a teacher, and his student, Zen Master Vân Phong (?-956).

 

Thần Hội often said to Vân Phong, "Birth and death are significant matters that require thorough understanding."

Vân Phong asked, "How can we escape when birth and death come?"

"Hold on to the realm beyond birth and death," replied Thần Hội.

Vân Phong asked, "What is the place of neither birth nor death?"

"It is in the realm of birth and death that we must strive to comprehend it fully and embrace it," replied Thần Hội.

 

Listening to Zen Master Trí Thiền discuss Zen Master Tuyết Đậu's book of records and hearing about Đạo Ngô and Tiệm Nguyên attending the funeral and discussing birth and death, Monk Quảng Nghiêm (1122-1190) appeared to grasp something and subsequently posed a question.

 

"Is there a principle in that realm before words are formed, as the ancient masters have indicated?"

Zen master Trí Thiền asked, "Can you comprehend that principle?"

Quảng Nghiêm asked, "What is the principle of being without birth and without death?"

Zen master Trí Thiền replied, "It is only through birth and death that it can be attained."

 

Both stories present a seemingly paradoxical solution. To avoid birth and death, one must grasp the place of no birth and no death, and this place of no birth and no death must be sought in the very place of birth and death. The truth that "there is no birth and no death" must be found within birth and death themselves. In short, to be liberated from birth and death, one must enter birth and death.

  

This “place of no birth and no death, where the truth of no birth and no death is revealed” is the inherent emptiness of birth and death. The inherent emptiness of birth and death does not exist outside of the realm of birth and death; it is only found within birth and death itself. The inherent emptiness of birth and death is the key to freeing oneself from the cycle of birth and death. This liberation can be found within the very process of birth and death.

  

Because the nature of birth and death is inherent emptiness, to be liberated from the manifestations of birth and death, one must discover the inherent emptiness within those manifestations.

  

The Vimalakirti Sutra says in the chapter Nhập Pháp môn Bất nhị (Entering through the non-dual door), “The Bodhisattva Na La Diên says: 'The world and the transcendent world are two. The world has an inherent emptiness; thus, it is the transcendent world, in which there is no entry, no exit, no progress, or no regression. That means entering through the gate of non-dual dharma.'”

  

The Bodhisattva Thiện Ý said: "The cycles of birth and death and Nirvana are two. If you see the nature of birth and death, then there is no birth and death, no bondage, no liberation, no birth, and no death. Thus, it is entering the non-dual dharma."

 

"The nature of birth and death is truly neither birth nor death, neither bondage nor liberation, neither appearing nor disappearing"—this implies that the nature of birth and death is Nirvana and that Nirvana is also characterized by inherent emptiness. Thus, to avoid birth and death, one must go into birth and death to find the nature of birth and death, and the nature of birth and death is inherent emptiness that leads to Nirvana.

  

Not only do impermanent birth and death exist outside of us, but they are also present in things that are easily perceptible to our senses. Birth and death are inherent within us, within our minds; it is the birth and death of thoughts that constitute our minds. A thought also experiences birth and death. It is born (sinh), stays (trụ), and then perishes (diệt). Our mind does not exist apart from thoughts. Therefore, when thoughts undergo birth and death, our mind also undergoes birth and death.

  

Buddhism often says, "It's all mind-made." In the Dhammapada, the first sentence is: "All things are preceded, surpassed, and created by the mind." The world and life, as each person experiences them, are created by their minds. The world and human life are distinct from the world and lives of animals, and this distinction lies in the presence of a mind in humans that animals do not possess.

  

When Buddhism says that "the three realms are only mind" or says "All is created by the mind," then the three realms are life and cessation, birth and death; it means that mind is life and cessation, birth and death. Life and cessation, the birth and death of the mind, created life and cessation, the birth and death of the world, and life. So to be free from the life and cessation of the world and life, one must be free from the life and cessation of the mind, or the life and cessation of thoughts.

 

Applying the teachings of the two Zen masters mentioned above, we come to understand that in order to transcend the cycle of thoughts arising and ceasing, we must discover freedom within the very process of thoughts arising and ceasing. We must seek and embrace the state of "no birth and no death," where the concept of "truth" transcends the boundaries of birth and death, encompassing the ever-changing thoughts that arise and pass away in every moment.

  

Here, we will only discuss one of the many methods to see clearly the mind ("biện tâm"—words of King Tran Thai Tong in the book "Khóa Hư Lục"), because all Buddhist sects and dharma gates are focused on achieving this goal.

  

Observing a thought, we see that it is not self-generated, because if it were, it would have been there before. It also does not arise from another thought because there was no other thought before. Nor does it arise from itself and from the other combined, for it simply did not exist before and there was no other. It is also not naturally born without causes and conditions. Observing closely and continuously, we will see its true nature, as Nagarjuna said in the Madhyamaka, first chapter, third sentence:

 

Dharmas are not self-born,

nor are they born from another,

nor are they born together with another,

nor are they without a cause.

So, the dharmas are called "unborn."

 

The true nature of thoughts is unborn because there is no real birth. Seeing this, the thoughts no longer have the power to bind, and then the thoughts liberate themselves. And when our thoughts liberate themselves, the world of birth and death, as we see it, also liberates itself.

 

When we carefully observe a thought or a consciousness when it arises, we do not see the birthplace of that thought or that mind. When that thought exists, where does it stay? And when it disappears, where does it disappear? Because we do not see the birth, abiding, and cessation of a single thought, by meditation and contemplation we see it arising, remaining, and passing away in a vast to infinite space. Therefore, the sutras often say "mind is like space," meaning that the space for the mind or for a thought to arise, stay, and die is boundless, just like space, like the sky.

  

The vast, infinite space for the arising, abiding, and passing away of consciousness, or mind, is called the mind-nature or the nature of the mind. That is the realm in which the mind arises and passes away. That is the boundless realm of the mind, the infinite space of the mind.

  

Just as space, the nature of the mind is limitless. It is formless, colorless, and does not belong to the realm of senses or conscious awareness. That is the nature of emptiness. The nature of the mind is its inherent emptiness.

 

Just as the space of the sky is the place for the clouds to disappear, the sky is the place for the deliverance of clouds. Just as the ocean is the place for the waves to disappear, the ocean is the place for the deliverance of waves. Likewise, the space of the mind, i.e., the emptiness of the mind, is the place for the deliverance of thoughts, consciousnesses, and even defilement.

  

Like space, the sky lies within the clouds themselves, just as the ocean lies within the waves themselves. Emptiness, which is the liberation of all types of mind, lies within every thought and within every defilement. The emptiness of mind is the "realm of no birth and no death" for each mind of birth and death, the "principle of no birth and no death" for all birth and death of the mind, and the emptiness of mind lies right there, in every thought, in every defilement, and in every type of mind.

  

The emptiness of the mind is not a kind of nothingness; it has light. Even light is the nature of the mind, as stated in The Chapter on a Finger-Snap in Aṅguttara Nikaya: "Luminous, monks, is the mind. And it is defiled by incoming defilements." (AN 1.51–60 Sutta, translated by Thanissaro Bhikkhu)

 

The nature of the mind is inherent emptiness and luminosity; that nature is the liberating ground for all minds of birth and death, and it lies at the heart of all minds of birth and death.

 

.... o ....



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thay vì ghi lại những gì đang xảy ra, hôm nay xin được nói chuyện về một đại hội âm nhạc được trực tiếp phát ra trên 3 hệ thống truyền hình lớn ở Mỹ (ABC, CBS, và NBC) vào tối ngày thứ bảy 18 tháng 4 năm 2020, lúc 5 giờ chiều giờ California, 7:00PM ở Texas, và 8 giờ tối ở New York.
Trong cuộc chiến chống lại hậu quả kinh tế của cuộc khủng hoảng Corona, Pháp tăng gói biện pháp lên khoảng 100 tỷ euro. Cho đến nay, 45 tỷ euro đã được lên kế hoạch, trong số những thứ khác để tài trợ cho công việc thời gian ngắn, như bộ trưởng ngân sách Gérald Darmanin tuyên bố hôm thứ Năm.
Tên giữa của COVID-19 nên là “tàng hình.” Con người có thể bị nhiễm vi khuẩn từ một tới ba ngày trước khi thấy các triệu chứng - gồm không ho, nhảy mũi hay sốt – trong điều gọi là “truyền nhiễm không có triệu chứng.” Một nghiên cứu của Singapore cho thấy rằng 10% truyền nhiễm là lây lan không có triệu chứng. Nghiên cứu 3,711 hành khách và nhân viên du thuyền Diamond Princess cho thấy rằng 1/5 những người mang bệnh COVID-19 đều không phát triển các triệu chứng. Một số trong những người này lây lan vi khuẩn qua “truyền nhiễm không có triệu chứng.” Tỉ lệ những người bị lây bệnh mà không bao giờ phát triển các triệu chứng có thể nhiều tới 1/3 đối với tổng dân số người trẻ tuổi và mạnh khỏe hơn những người phục vụ trên thuyền. Khả năng lây lan của vi khuẩn rất dễ từ người sang người là lý do tại sao người được yêu cầu giữ khoảng cách vật lý nơi nơi công cộng. Nhưng con ngưiờ vẫn phải đi ra ngoài để mua những nhu yếu phẩm tại những nơi thường có nhiều người đến.
Vài năm trước, bên bàn nhậu, tui có nghe một cha bợm rượu kể lại chuyện sau: Khi còn tại chức, bà Phan Thúy Thanh – phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao của nước CHXHCNVN – có nuôi một con két nói năng rất sõi. Một hôm, chả may, nó sổ lồng bay mất. Bà Thanh nhờ báo đăng để tìm lại con thú cưng nhưng báo chưa ra mà đã có người đến gõ cửa. Hỏi: Sao anh biết là con vẹt này của tôi? Đáp: Nó chối leo lẻo nên nhà cháu biết ngay là của bà chứ còn ai vào đây nữa.
Từ ngày đại dịch cúm Corona Virus lan tràn ra khắp thế giới, lan tới tận nước Mỹ hiền lành, nhiều giới kinh doanh bị ảnh hưởng nặng nề. Ảnh hưởng nhứt vẫn là bà con trong ngành thẩm mỹ, do nghề nghiệp phải tiếp xúc quá gần với khách hàng, nên bắt buộc phải đóng cửa để tránh sự lây lan. Nhìn qua xứ Phật Ấn Độ, Tổng Thống nước họ lên đài truyền hình vừa ban lịnh nội bất xuất ngoại bất nhập 21 ngày trên toàn quốc, vừa ve vuốt năn nỉ người dân “Ở yên trong nhà 21 ngày hay la cà ngoài đường chơi để vi khuẩn corona tấn công lây bịnh chết chóc khiến đất nước phải lùi lại 21 năm, bà con chọn đi”. Ai mà muốn đất nước mình thụt lùi lại mấy chục năm trong khi thế giới tiến bộ từng ngày, vậy là lịnh ban ra, và Cảnh Sát tuôn ra đường với cây roi mây lăm lăm trên tay, để trừng trị những người bất tuân luật pháp tạm thời.Cô Tư coi cảnh quí ngài cảnh sát xứ Ấn quất cây roi mây vô những người dám chạy rong ngoài đường, hay tụ năm tụ ba ngồi tỉnh bơ trước cửa nhà hút thuốc, a lê hấp, vô nhà mà ngồi,
Do tình hình đại dịch Corona virus, để tránh lây lan theo những hướng dẫn, đề nghị của cơ quan Y Tế địa phương và tiểu bang California, văn phòng chính của Hội Đồng Thẩm Mỹ (HĐTM) sẽ đóng cửa không tiếp xúc với công chúng cho tới khi có thông báo mới. Tuy nhiên, văn phòng vẫn mở cửa cho các nhân viên làm việc. Nếu bạn cần gia hạn bằng cấp hành nghề, xin giấy phép môn bài, hoặc thay đổi chi tiết cá nhân xin vui lòng ghi danh với : www.breeze.ca.gov
Thời gian rảnh rổi phải ở nhà tránh lây lan dịch Corona virus, chị em bạn gái không còn có dịp trang điểm hay diện đẹp đi làm đi chơi…, thì chúng ta ở trong nhà cùng gia đình, dọn dẹp nhà cửa cho gọn gàng sạch sẽ, chăm sóc vườn hoa cây trái, những chuyện mà khi bận rộn làm việc, không có nhiều thờì gian, nhất là gần gũi, chăm sóc, chơi đùa với các con. Hơn thế nữa, với đôi bàn tay khéo léo, phụ nữ có thể tự may lấy những tấm khẩu trang che mũi, che miệng, cho người thân trong nhà dùng khi cần ra ngoài đường, đi chợ, đi ngân hàng, đi đổ xăng, đi theo hẹn với bác sĩ nếu có máy may. Nếu may nhiều, dư ra, hãy cho bạn bè không biết may, gởi tặng cho nhà thương nào cần. Khi may khẩu trang, bạn nhớ nên có túi để có thể nhét vào miếng “Filter” có thể lấy ra thải bỏ sau khi dùng thì bác sĩ, y tá, hay nhân viên làm việc trong nhà thương mới dùng được. May rất dễ chỉ cần vải 100% cotton, sợi giây thun, xếp 2, hay 3 li là vừa vặn. Các bạn có thể tìm trên mạng “YouTube” hướng dẫn cách may.
Họng được cấu tạo như thế nào? Cuống họng là một ống cơ bắp lót bằng một màng nhờn, chiều dài khoảng 2.7 phân và kéo dài từ phía sau của mũi tới thực quản.Nó cấu tạo một phần của hai bộ phận khác nhau là hô hấp và tiêu hóa.Không khí và thực phẩm đi qua đó và chúng ta rất ngạc nhiên là sự cộng sinh này xẩy ra êm ả. Họng chia ra làm ba vùng. Phần trên cùng là mũi hầu, bắt đầu từ xoang mũi. Từ đây không khí và các chất tiết từ mũi và các xoang bắt đầu chẩy ra. Phần giữa là họng miệng, rộng nhất của họng. Chính nơi đây, ngay ở dưới vòm miệng, là đường dẫn không khí hợp với hệ thống chuyên trở thực phẩm. Ở phần thấp nhất của họng là hầu thanh quản với các đường hô hấp và tiêu hóa. Vì chúng gặp nhau, có người cho rằng thực phẩm và nước thường thường đi nhầm đường nhiều hơn. Các ống dẫn không khí, bắt dầu từ phiá sau của họng,uốn cong về đằng trước. Ở đó nó trở thành thanh quản với các dây thanh âm.Thanh quản mở vào khí quản rồi lên phổi.
Thị Trưởng Tạ Đức Trí đã tuyên bố về kết quả cuộc bỏ phiếu nói trên như sau: “Một lần nữa, cư dân của thành phố Westminster đã lên tiếng thật rõ ràng và dứt khoát. Chân thành cảm tạ sự ủng hộ vững vàng của quý vị đối với khối đa số trên hội đồng thành phố và tiếp tục đồng hành cùng chúng tôi trong nỗ lực duy trì hình ảnh “All-America City” của thành phố Westminster. Chúng tôi trân quý niềm tin của cử tri dành cho chúng tôi trong việc cải thiện thành phố ngày một tốt đẹp hơn cho mọi gia đình sinh sống và làm việc. Qua lá phiếu của mình, quý cử tri đã trao cho chúng tôi một sứ mạng rõ ràng là tiếp tục trọng trách đại diện cho quyền lợi chính đáng của mọi cư dân trong thành phố. Dù cuộc bầu cử dai dẳng đã có lúc trở nên căng thẳng, quý cư dân vẫn vững tin vào chúng tôi bằng những lá phiếu. Chúng tôi xin chân thành tri ân sự ủng hộ mạnh mẽ này và chúng tôi tâm nguyện sẽ tiếp tục cống hiến, phục vụ cư dân bằng việc cải thiện cung cách làm việc của Tòa Thị Chánh.
Tháng 5, 2017, tại Hội nghị Y tế Toàn cầu WHA (World Health Assembly) ở Geneva, Thụy Sĩ, lần đầu tiên đại diện 194 nước thành viên của Tổ chức Y tế Quốc tế WHO (World Health Organization) đã được quyền bầu trực tiếp người chủ tịch. Sau nhiều tháng tranh cử gay go, ông “Tedros” Adhanom Ghebreyes người Ethiopian đã chiến thắng với 133 phiếu thuận. Người về nhì, Bác sĩ David Nabarro của Anh, được 50 phiếu. Ông Tedros kế nhiệm Bác sĩ Margaret Chan — một công dân Gia Nã Đại gốc Hồng Kông, để trở thành người thứ 8 và người Phi Châu đầu tiên giữ chức vụ quan trọng này.
Thượng Nghị Sĩ Lindsey Graham (CH-South Carolina) và TNS Chris Coons (DC-Delaware) và một nhóm các thượng nghị sĩ lưỡng đảng hôm Thứ Năm đã “khẩn cấp” yêu cầu rằng TQ “lập tức” đóng cửa tất cả cáca hoạt động chợ ướt [chợ bán động vật hoang dã] mà đã bị liên kết với đại dịch vi khuẩn corona, theo bản tin Newsmax cho biết hôm Thứ Năm. Trong một lá thư mà Fox News có được, TNS Graham và TNS Coons thúc giục Đại Sứ TQ Cui Tiankai đóng cửa các chợ để “bảo vệ” thế giới khỏi bị “nguy hiểm sức khỏe thêm nữa.”
New York, trung tâm đại dịch vi khuẩn corona tại Mỹ, đã có mức tăng hàng ngày thấp nhất số người vào bệnh viện kể từ cuộc khủng hoảng bắt đầu, nhưng Thống Đốc Andrew Cuomo cảnh báo rằng tiểu bang mới chỉ ở “đợt sóng đầu,” theo CNN cho biết hôm Thứ Năm, 9 tháng 4. “Bạn vẫn chưa ra khỏi rừng,” ông Cuomo cho biết như vậy trong cuộc họp báo hôm Thứ Năm. “Chúng ta đã làm xong vài điều vĩ đại và chúng ta đã cứu mạng bởi vì chúng ta tuân thủ các chính sách này (như ở trong nhà).”
Phi Luật Tân hôm Thứ Tư bày tỏ tình đoàn kết với Việt Nam sau khi Hà Nội phản đối đều mà họ gọi là tài duyên phòng của Trung Cộng đã đâm chìm tàu cá Việt Nam trong vùng Biển Đông tranh chấp, theo AP cho biết hôm Thứ Năm.
là quốc gia cuối nguồn của dòng Mekong, Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam lâu nay đã gánh chịu thiệt hại nặng nề từ những con đập thủy điện phía thượng nguồn. Lần này, Việt Nam nên ứng xử thế nào khi đích thân một doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam nhúng tay vào làm chủ đầu tư con đập Luang Prabang?
Không phải là chuyên gia y tế nên tôi chỉ dịch, thông tin liên quan đến đại dịch Corona bắt nguồn từ Wuhan (vì vậy mới có tên Wuhan-Virus (sic)). Riêng về Y, Dược chỉ dựa theo tin của các chuyên gia về Virus, Bác Sĩ hay giới lãnh đạo trách nhiệm về y tế, điển hình ở Đức là Bộ Y Tế dưới sự lãnh đạo của Bộ Trưởng Jens Spahn (CDU). Cũng nói thêm ông Spahn không làm việc một mình, ông Spahn có ban cố vấn giỏi, có sự cố vấn của Viện Robert Koch (RKI) và nhiều giảng sư y khoa nổi tiếng khác. Bên cạnh đó còn có sự nghiên cứu của các Unis và những hãng chuyên sáng chế thuốc nổi tiếng ở Đức, nói riêng khi cần thiết.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.