Hôm nay,  

Con đường giải thoát: trong một hay vài câu

15/11/202309:17:00(Xem: 4083)
blank 

Con đường giải thoát: trong một hay vài câu

 

Nguyên Giác

 

 

Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không? Thực tế thường không đơn giản, vì luôn luôn là có một lộ trình Giới, Định, Huệ. Tuy nhiên, trong Kinh Phật cho thấy có những cơ duyên lớn, trong nhiều trường hợp, Đức Phật trả lời khi được hỏi đạo, và người hỏi ngay sau đó là trở thành bậc  A la hán. Như trong Kinh Tập, ở Phẩm thứ tư (Aṭṭhakavagga, dịch là "The Chapter of Eights" - tức Phẩm Tám) và Phẩm thứ năm (Pārāyanavagga, dịch là "The Chapter on the Way to the Beyond" - tức Phẩm Qua Bờ Kia), hai phẩm vừa dẫn là cuộc đối thoại giữa Đức Phật và 32 chàng trai Bà La Môn tới hỏi đạo. Đức Phật trả lời từng người hỏi bằng một bài thơ, chàng trai đương cơ nghe xong thấy ngay đường giải thoát. Hai phẩm này đã trở thành Kinh Nhật Tụng cho tăng đoàn khi Đức Phật còn sanh tiền. Nghĩa là, có cách tóm lược con đường giải thoát, và Đức Phật lấy các bài thơ trả lời đó làm Kinh Nhật Tụng cho tăng đoàn.

 

Bài viết này sẽ dựa một phần vào cuộc thảo luận của một số học giả trên mạng SuttaCentral.net có nhan đề “The whole of the Path in 2 sentences or less - Sutta quotes” (Trọn con đường giải thoát trong 2 câu hay ngắn hơn – trích dẫn theo Kinh) (1), và sẽ tham khảo thêm kinh văn. Nói là “câu” (sentence) theo nghĩa đơn giản là từ dấu chấm (.) này tới dấu chấm kia. Trong bài này, sẽ tìm những bài pháp ngắn, một câu, hai câu hay vài câu có ý tóm lược. Chúng ta cách Phật đã xa, trong xã hội thời nay lại nhiều phức tạp, ngay cả khi có được những câu tóm lược giáo pháp, cũng cần phải ngày đêm tinh cần, tín tâm kiên cố, tin sâu nhân quả, biện biệt chánh kiến, thường trực chánh niệm, và cố gắng hành trì càng nhiều càng tốt các pháp của giới, định, huệ. Đức Phật đã nhiều lần khuyến tấn rằng, phải tu học tinh tấn như lửa đang cháy trên khăn bịt đầu.

 

Phật pháp được ghi lại trong thiên kinh vạn quyền, nhưng trong nhiều Kinh, Đức Phật đã dạy pháp ngắn gọn, một câu, hay vài câu. Thí dụ, có thể dẫn ra Kinh SN 35.95, ngài Màlukyaputta tới thưa với Đức Phật: "Bạch Thế Tôn, mặc dù con đã già, tuổi cao, sức yếu, đã đến giai đoạn cuối đời, con xin Thế Tôn dạy Pháp một cách vắn tắt, con ước mong Thế Tôn thuyết pháp ngắn gọn cho con. Con hy vọng sẽ hiểu được ý nghĩa lời dạy của Thế Tôn, con hy vọng sẽ trở thành người thừa tự pháp của Thế Tôn." Và rồi, Đức Phật dạy một bài pháp ngắn, cô đọng. Có nhiều kinh trong tinh thần ngắn gọn như thế. Sau đây là những bài pháp ngắn gọn, được xem là gói trọn con đường Bát Chánh Đạo. Chúng ta có thể chú ý rằng, một số pháp ngắn gọn này có thể thực tập tức khắc, và thấy an lạc tới rất nhanh. Nghĩa là, thực tập ngay, không cần phải chờ tới Chủ Nhật để lên chùa xin quy y (chuyện này để sau cũng được, nếu bạn chưa quy y). Dù vậy, cũng cần cảnh giác, rằng bài viết này chỉ là một giới thiệu, và độc giả cần tìm trọn vẹn các bài kinh để đọc, và sẽ tốt hơn nữa, nếu tìm đọc trong nhiều bản tiếng Anh khác nhau để đối chiếu. Thêm nữa, một số bài kinh quan trọng lại không ngắn, thí dụ các kinh về Tứ Niệm Xứ, hay các kinh về 16 pháp quán niệm hơi thở, kể như không thể tóm tắt được. Nếu cố gắng tóm tắt các kinh này cho gọn vài câu, dĩ nhiên sẽ là bất toàn. Nhưng xuyên suốt tất cả các pháp của nhà Phật là phải kiên cố giữ giới, vững chắc ly dục (giữ giới và ly dục tự động sẽ có định), không lìa chánh kiến (xa lìa cả có và không), thường trực chánh niệm và tỉnh giác (và tất cả những cái khác sẽ là đối tượng của chánh niệm và tỉnh giác).

 

Nơi đây, phần đầu, chúng ta sưu tập từ Kinh Pháp Cú, tất cả đều từ bản dịch của Thầy Thích Minh Châu, sẽ thấy Đức Phật dạy những bài pháp ngắn gọn, dễ nhớ, và đều có sự tích cụ thể. Phần trong ngoặc đơn sau bài kệ là người viết lược ghi các tích truyện, duyên khởi nào để Đức Phật nói bài kệ.

 

20. Dầu nói ít kinh điển, nhưng hành pháp, tùy pháp, từ bỏ tham, sân, si, tỉnh giác, tâm giải thoát, không chấp thủ hai đời, dự phần Sa môn hạnh. (Duyên của bài kệ này là, Đức Phật nói về 2 bạn thân, cùng xuất gia, trong đó một vị uyên bác kinh điển, trở thành thầy của 500 vị sư, nhưng tu chẳng tới đâu, Còn vị kia, chỉ tụng ít kinh điển, nhưng đã lìa tham sân si, đã đắc quả A la hán. Từ bỏ tham sân si cũng là ngộ nhập Niết Bàn.)

 

46. Biết thân như bọt nước, ngộ thân là như huyễn, bẻ tên hoa của ma, Vượt tầm mắt thần chết. (Có một vị sư nhìn thấy bọt nước ven sông, nhận ra bản chất của thân là vô thường. Đức Phật lúc đó hiện ra trong linh ảnh nhà sư, nói bài kệ này, và nhà sư sau khi nghe xong liền đắc quả A la hán. Thấy như huyễn, nghĩa là thấy trước mắt các pháp mà không gọi được là Có, và không gọi được là Không. Cũng là Bát Nhã Tâm Kinh.)

 

93. Ai lậu hoặc đoạn sạch, ăn uống không tham đắm, tự tại trong hành xứ, "Không, vô tướng, giải thoát." Như chim giữa hư không, dấu chân thật khó tìm. (Đức Phật nói bài kệ này để ca ngợi Trưởng lão Anuruddha, người đã chứng quả A la hán, sống thường trực với tâm giải thoát của Không, và của Vô Tướng.)

 

95. Như đất, không hiềm hận; Như cột trụ, kiên trì; Như hồ, không bùn nhơ. Không luân hồi, vị ấy. (Có 1 vị sư trẻ tới khai gian với Đức Phật rằng bị Trưởng lão Sariputta la mắng, đánh đập. Trưởng lão Sariputta nói với Đức Phật rằng tâm của trưởng lão đã y hệt mặt đất, đón nhận ném vào cả hoa và rác, mà không vui, không giận. Đức Phật mới đọc bài kệ này, xác nhận tâm của Trưởng lão Sariputta lúc nào cũng vững như đất, như cột cửa; tâm cũng như mặt hồ lặng lẽ, không bùn nhơ; và đã xa lìa sinh tử luân hồi.)

 

96. Người tâm ý an tịnh, lời an, nghiệp cũng an, Chánh trí, chơn giải thoát, Tịnh lạc là vị ấy. (Bài này nói ba nghiệp thân, khẩu, ý an tịnh thì là giải thoát. Duyên để Đức Phật đọc bài kệ này là chuyện của một cậu bé 7 tuổi xuất gia làm samanera, khi đang cạo đầu thì cậu bé đã chứng quả A la hán.)

 

183. Không làm mọi điều ác, thành tựu các hạnh lành, tâm ý giữ trong sạch, chính lời chư Phật dạy. (Một lần, ngài Ananda thỉnh Đức Phật nói về Giáo Lý Căn Bản mà tất cả chư Phật đều dạy. Đức Phật nói rằng, đó là làm lành, lánh dữ và giữ tâm cho trong sạch. Khi các học giả nói về Đạo Phật, họ chọn câu này là phổ biến nhất.)

 

190. Ai quy y Đức Phật, Chánh pháp và chư tăng, ai dùng chánh tri kiến, thấy được bốn Thánh đế. 191. Thấy khổ và khổ tập, thấy sự khổ vượt qua, thấy đường Thánh tám ngành, đưa đến khổ não tận. (Đức Phật nói bài kệ 190 và 191, rằng quy y Tam Bảo, dùng chánh tri kiến, thấy Tứ Thánh Đế, thấy Bát Chánh Đạo, sẽ giải thoát. Đương cơ của 2 bài kệ này là Aggidatta, một vị Bà La Môn, và các đệ tử của vị này. Khi nghe xong, Aggidatta và tất cả đệ tử của ông đều đắc quả A-la-hán. Tất cả đều gia nhập Tăng chúng Tỳ kheo.)

 

273. Tám chánh, đường thù thắng. Bốn câu, lý thù thắng. Ly tham, pháp thù thắng, Giữa các loài hai chân, Pháp nhãn, người thù thắng. (Nghe xong, 500 vị chứng quả A La Hán)

 

277. Tất cả hành vô thường. Với Tuệ, quán thấy vậy, đau khổ được nhàm chán; Chính con đường thanh tịnh. (Sau khi nghe bài kệ này, rằng tất cả pháp là vô thường, 500 vị tỳ kheo liền đắc quả A La Hán. Thấy vô thường là giải thoát. Phần lớn sự tích Thiền Tông liên hệ ý này. Như bài thơ Trâu Bùn Qua Sông của Tuệ Trung Thượng Sỹ.)

 

278. Tất cả hành khổ đau, với Tuệ quán thấy vậy, đau khổ được nhàm chán; Chính con đường thanh tịnh. (Tương tự, nghe rằng tất cả hành là khổ, 500 vị tỳ kheo khác liền đắc quả A la hán.)

 

279. Tất cả pháp vô ngã, với Tuệ quán thấy vậy, đau khổ được nhàm chán. Chính con đường thanh tịnh. (Tương tự, 500 vị tỳ kheo khác sau khi nghe rằng tất cả pháp đều vô ngã, liền đắc quả A la hán. Ghi nhận rằng, Thiền Tông VN phần lớn là pháp này: thấy chư pháp vô ngã là giải thoát. Ngài Trần Nhân Tông nói, "Tất cả pháp chẳng sanh, tất cả pháp chẳng diệt..." và "Đức Phật chưa từng dạy một lời..." cũng là chỉ vào tánh vô ngã của các pháp, và ngay cả vô ngã của thân tướng Đức Phật. Thiền sư Nghĩa Hoài Thiên Ý nói rằng phàm là bậc tông sư trong Thiền tông thì phải đoạt trâu của kẻ đi cày [để thấy vô ngã thì phải thấy con trâu, tức là tâm, sẽ thường trực là không, và vì là không, cho nên không thấy có gì để đi cày, để mài giũa tâm]; bậc thầy cũng phải cướp cơm kẻ đói, tức là giúp học trò ngộ được bản tâm vô ngã thì không có ngã nào cần tìm cơm nữa.)

 

348. Bỏ quá, hiện, vị lai, đến bờ kia cuộc đời. Ý giải thoát tất cả, chớ vướng lại sanh già. (Chàng nghệ sĩ Uggasena đứng trên đầu cây sào hát xiệc, nghe xong là đắc quả A La Hán. Người giải thoát thì trong tâm không còn dính gì với quá khứ, hiện tại, vị lai nữa.)

 

367. Hoàn toàn, đối danh sắc, Không chấp Ta, của Ta. Không chấp, không sầu não. Thật xứng danh Tỷ kheo. (Đức Phật gặp 2 vợ chồng Bà La Môn, trả lời câu hỏi bằng bài kệ này, rằng ai không dính mắc vào thân và tâm là “tôi và của tôi”, và không đau buồn trước sự tan rã của thân và tâm thì được gọi là một vị tỳ khưu. Hai vợ chồng Bà La Môn nghe xong đều đắc quả Bất Lai, tức quả A-na-hàm.)

 

385. Không bờ này, bờ kia. Cả hai bờ không có. Lìa khổ, không trói buộc. Ta gọi Bà La Môn. (Bài kệ này Đức Phật nói với Mara. Bờ này là mắt tai mũi lưỡi thân ý; bờ kia là cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc và được tư lường. Thấy cả 2 bờ đều là Không, thì lìa khổ, sẽ giải thoát. Đây cũng là những câu đầu của bài Bát Nhã Tâm Kinh.)

 

421. Ai quá, hiện, vị lai, không một sở hữu gì, không sở hữu không nắm, Ta gọi Bà La Môn. (Nhân duyên Đức Phật nói bài kệ này là, khi cư sĩ Visakha ở thị trấn Rajagaha đắc Quả A-na-hàm, thì vợ cư sĩ này là bà Dhammadinna xin xuất gia, vào một Ni viện. Chỉ trong thời gian ngắn, Ni trưởng Dhammadinna đắc quả A la hán. Khi Ni trưởng Dhammadinna về thăm thành phố Rajagaha, Đức Phật xác nhận rằng Ni trưởng Dhammadinna đã đắc quả A la hán, và Đức Phật đọc bài kệ này, rằng bậc giải thoát là trong tâm không lưu giữ bất kỳ một pháp nào của quá khứ, hiện tại, và vị lai. Cả 3 thời đều tịch lặng trong tâm người giải thoát.)

 

Trong ba bài kệ có số 277 (thấy các pháp là Vô thường), 278 (thấy các pháp là Khổ), 279 (thấy các pháp là Vô ngã) dẫn trên, đặc tướng của các pháp còn được gọi là Pháp ấn. Chỉ cần thấy tận tường, thường trực một Pháp ấn là sẽ thấy trọn cả ba Pháp ấn, và sẽ giải thoát. Trong khi đó, các bài kệ 46, 93, 348, 367, 385, 421 cho thấy giải thoát sẽ tới khi thấy các pháp là Như huyễn, là Không, là Vô tướng, là lìa cả ba thời. Tất cả các bài kệ vừa dẫn đều mang tinh thần Đốn ngộ của Thiền tông Việt Nam. Nghĩa là, chỉ cần thấy một lóe lên của tâm giải thoát, thì từ đó chỉ bảo nhiệm tâm này. Trong khi đó, các bài kệ 20, 95, 96, 183, 190, 191, 273 là nói lên lộ trình Tứ Thánh Đế, Bát Chánh Đạo, giữ ba nghiệp thân khẩu ý cho thanh tịnh, lìa tham sân si, là con đường tuần tự, liên tục gột rửa lậu hoặc.

 

Trong tác phẩm tiếng Anh "Easy Paths for attaining Nibbāna" (Những con đường dễ thành tựu Niết Bàn) (2) bao gồm 31 bài Kinh trích từ Tạng Pali do các nhà sư Thái Lan sưu tập, đã in hai lần bài kinh SN 35.147 tương ưng với bài kệ Pháp Cú 277 (thấy Vô thường) trong sách, nơi trang 2, và rồi in lại nơi trang 54. Khi in 2 lần trong cuốn sách mỏng đó, không phải là lỗi kỹ thuật, chỉ vì các sư Thái Lan nhấn mạnh tầm quan trọng lời Đức Phật dạy rằng hễ thấy vô thường là đang đi tới Niết Bàn.

 

Bài Kinh SN 35.147 trong Nikaya là tương đương với Kinh SA 219 của Tạng A Hàm. Bài Kinh này rất ngắn, nội dung Đức Phật dạy rằng, hễ thấy vô thường khắp cõi này là đang bước tới Niết Bàn. Bài Kinh SA 219, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng như sau:

 

Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: Nay Ta sẽ nói về con đường đưa đến Niết-bàn. Vậy, thế nào là con đường đưa đến Niết-bàn? Quán sát mắt là vô thường. Quán sát sắc, nhãn thức và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân duyên nhãn xúc; chúng cũng đều là vô thường. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Đó gọi là con đường đưa đến Niết-bàn.’” (Hết trích)

 

Hình ảnh quán niệm vô thường còn được thể hiện trong Thiền Tông Việt Nam qua bài thơ Trâu Bùn Qua Sông của Tuệ Trung Thượng Sỹ: thấy các pháp tan rã như con trâu bùn lội sông thì sẽ giải thoát. Trâu bùn lội sông còn có  nghĩa là thể nhập pháp ấn vô thường và vô ngã. Đức Phật cũng nói về oai lực của pháp quán niệm vô thường rằng có cúng dường Tam Bảo phước đức cỡ nào cũng không bằng một khoảnh khắc niệm vô thường. Đức Phật dạy trong Kinh AN 9.20, bản dịch của Thầy Minh Châu trích như sau:

 

“...và có ai bố thí trăm vị A-la-hán… và có ai bố thí một vị Độc giác Phật, và có ai bố thí trăm vị Độc giác Phật, và có ai bố thí Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác… và có ai bố thí chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, và có ai cho xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng trong bốn phương… và có ai với tâm tịnh tín qui y Phật, Pháp và chúng Tăng… và có ai tâm tịnh tín chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh… từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu… và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc vắt sữa bò, tu tập từ tâm, và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc búng ngón tay, tu tập tưởng vô thường, bố thí này quả lớn hơn bố thí kia.” (Hết trích)

 

khi thấy vô thường, tức là thấy vô ngã. Lý luận này được Đức Phật sử dụng trong nhiều kinh, như các Kinh SN18.1, SN22.59, S 22.87. Trong Kinh SN18.1, Đức Phật dạy ngài Rahula rằng: "Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng, khi xem cái ấy: “Cái này là của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi”?" Tương tự, trong Kinh AN 9.3, Đức  Phật dạy: "Này Meghiya, với Tỷ-kheo có tưởng vô thưởng, tưởng vô ngã được tồn tại."

 

Như bài Kệ Pháp Cú 279 ghi rằng, hễ thấy các pháp vô ngã tức là đang bước tới Niết Bàn. Nơi đây, chúng ta nhận ra lời dạy này trong Kinh SN35.149 nơi Tạng Pali, tương đương bên A Hàm là Kinh SA220. Chú ý rằng, Kinh SA 220 là kế tiếp Kinh SA 219 đã dẫn trên. Do vậy, Đức Phật gọi là con đường tương tợ [tức, tương đương như quán vô thường] đưa tới Niết Bàn. Kinh SA 219, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng như sau:

 

Tôi nghe như vầy. Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo: ‘Có con đường tương tợ đưa đến Niết-bàn. Vậy, thế nào là con đường tương tợ đưa đến Niết-bàn? Quán sát mắt chẳng phải ngã. Quán sát sắc, nhãn thức và cảm thọ với khổ thọ, lạc thọ và phi khổ phi lạc thọ được cảm thọ bên trong phát sanh bởi nhân duyên nhãn xúc, chúng cũng được quán sát là vô thường. Đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng lại như vậy. Đó gọi là con đường tương tợ đưa đến Niết-bàn.’” (Hết trích)

 

Trường hợp Kinh SN 12.70 (Susima Sutta), trong khi nhiều nhà phân tích nói rằng 60 vị tăng trong kinh này được Đức Phật công nhận là đã chứng quả A la hán tuy là chưa đắc định (hiểu là chưa đạt sơ thiền), chưa có thần thông, nhưng Thanissaro Bhikkhu viết ghi chú trên mạng Access to Insight rằng có lẽ 60 vị A la hán đó đều đã đắc sơ Thiền.

 

Lời dạy tóm tắt trong Kinh SN 12.70 là: "...cái gì thuộc sắc pháp quá khứ, vị lai hay hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần, tất cả sắc pháp cần phải được quán như chơn như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”... tương tự với thọ, tưởng, hành, thức... Này Susīma, thấy như vậy, vị Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc, nhàm chán đối với thọ, nhàm chán đối với tưởng, nhàm chán đối với các hành, nhàm chán đối với thức. Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: “Ta đã giải thoát”. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”..." (Hết trích)

 

Trong khi đó, Kinh Ud.1.10 (còn gọi là Bahiya Sutta) và Kinh SN35.95 (Malunkyaputta Sutta) ghi cùng một lời dạy của Đức Phật. Kinh Ud.1.10 có một điểm đặc biệt: sau khi đạo sĩ ngoại đạo Bahiya tới vấn đạo, nghe Đức Phật dạy xong, khi bước đi trên đường thì bị bò húc chết, lúc đó Đức Phật nói rằng Bahiya đã trở thành A La Hán, nên cái chết là vào Niết Bàn. Trong khi đó, trong Kinh SN35.95, Trưởng lão Malunkyaputta thưa Đức Phật rằng ngài đã già yếu, nên cần xin lời dạy ngắn gọn để giải thoát khẩn cấp. Nơi đây, trích dịch Kinh Ud.1.10 như sau:

 

Thế này, Bahiya, ông nên tu tập thế này: Trong cái được thấy sẽ chỉ là cái được thấy; trong cái được nghe sẽ chỉ là cái được nghe; trong cái được thọ tưởng sẽ chỉ là cái được thọ tưởng; trong cái được thức tri sẽ chỉ là cái được thức tri.’ Cứ thế mà tu tập đi, Bahiya.” (Hết trích)

 

Trong Kinh AN 9.3, Đức Phật dạy rằng: "Meghiya, người nhận ra vô thường sẽ thiết lập sự nhận biết về vô ngã. Người nhận ra vô ngã sẽ hoàn toàn nhổ bỏ được khái niệm về cái gọi là "cái tôi là" -- và  – Niết Bàn có thể thấy được ngay lập tức.” (Câu vừa dẫn là dịch theo Bhikkhu Sujato và Bhikkhu Suddhāso, và đối chiếu vời bản dịch của Thầy Minh Châu, nói rằng thấy vô thường, tức thấy vô ngã, tức khắc nhận ra Niết Bàn.)

 

Cái gần nhất với chúng ta luôn luôn là thân. Đức Phật dạy rằng Thân hành niệm (Niệm thân) sẽ đoạn tận vô minh, sẽ xóa bỏ chấp ngã "tôi là," sẽ nhổ tận gốc các tùy miên tiềm ẩn, sẽ đoạn tận giải thoát. Kinh AN 1.586, dịch như sau: “Này các Tỷ-kheo, khi một pháp được phát triển và trau dồi, vô minh hoàn toàn bị đoạn tận, tri kiến chân chính khởi lên, ngã mạn ‘tôi là’ bị đoạn tận, các khuynh hướng tiềm ẩn bị nhổ tận gốc, và các kiết sử xiềng xích bị đoạn tận. Một pháp nào? Đó là Thân hành niệm."

 

Kinh MN 118 có nhiều lời dạy quan trọng, không thể tóm tắt trong một vài câu được. Nhưng có thể rút một phần ra để ứng dụng trong mọi thời, dù là ngồi gữa chợ, hay trên xe buýt, hay trong lớp học. Trích như sau:

 

"Thở vô dài, vị ấy biết: “Tôi thở vô dài”. Hay thở ra dài, vị ấy biết: “Tôi thở ra dài”. Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở vô ngắn”. Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập." (Hết trích)

 

Kinh SN 36.7, lời Đức Phật dạy rằng phải thường trực chánh niệm và tỉnh giác, theo bản dịch của Thầy Minh Châu:

 

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo chánh niệm? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo chánh niệm. Sống quán thọ trên các cảm thọquán tâm trên tâm … quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo chánh niệm.

 

Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tỉnh giác? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay, đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nếm đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, im lặng đều tỉnh giác. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tỉnh giác." (Hết trích)

 

Kinh MN 145, Đức Phật dạy, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích: "Này Puñña, có những sắc do mắt nhận thức, khả ái, khả lạc, khả hỷ, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thưởng, không chấp thủ và an trú, thời dục hỷ diệt. Này Puñña, Ta nói rằng, từ sự diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ. Này Puñña, có những tiếng do tai nhận thức; có những hương do mũi nhận thức; có những vị do lưỡi nhận thức; có những cảm xúc do thân nhận thức; có những pháp do ý nhận thức, khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Nếu Tỷ-kheo không hoan hỷ, không tán thưởng, không chấp thủ và an trú, thời dục hỷ diệt. Này Puñña, Ta nói rằng, từ sự diệt tận dục hỷ là sự diệt tận đau khổ." (Hết trích)

 

Giữ tâm vô niệm là một pháp thường được dạy trong Thiền Tông Trung Hoa và Việt Nam. Trong Kinh SN 12.40, Đức Phật dạy giữ tâm vô niệm như sau, theo bản dịch của Thầy Minh Châu: “Này các Tỷ-kheo, nếu không có tư niệm, tư lường, không có thầm ý, thời không có sở duyên cho thức an trú. Do sở duyên không có mặt nên thức không có an trú. Do thức ấy không an trú, không tăng trưởng nên không có thiên về, hướng về. Do không có thiên về, hướng về nên không có đi đến tái sanh. Do không có sự đi đến tái sanh nên không có từ bỏ và sanh khởi. Do không có từ bỏ và sanh khởi nên trong tương lai sanh, già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đoạn diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.” (Hết trích)

 

Nếu bạn không tu tập Tứ Niệm Xứ, bạn có thể tu tập theo Vô tướng thiền định. Đó là lời Đức Phật dạy trong Kinh SN 22.80. Bản dịch của Thầy Minh Châu trích như sau:

 

Này các Tỷ-kheo, có ba bất thiện tầm này: dục tầm, sân tầm, hại tầm. Và này các Tỷ-kheo, ba bất thiện tầm này được đoạn diệt không có dư tàn, đối với vị nào tâm đã khéo an trú vào bốn Niệm xứ hay tu tập vô tướng Thiền định. Này các Tỷ-kheo, hãy khéo tu tập vô tướng Thiền định. Này các Tỷ-kheo, vô tướng Thiền định được tu tập, làm cho tăng thịnh, đưa đến quả lớn, lợi ích lớn.” (Hết trích)

 

Thế nào là tu tập Vô tướng Thiền định? Khi tu tập Tứ Niệm Xứ, nghĩa là niệm thân, thọ, tâm, pháp, nghĩa là niệm tất cả các tướng của thân và tâm. Ngược lại, tu tập Vô tướng Thiền định có nghĩa là “không tác ý tất cả tướng,” nói cụ thể là “niệm vô tướng,” hay nói theo Thiền Việt Nam là vô tâm hay vô niệm, cũng có thể gọi là “tỉnh thức với tâm không biết.” Trong Kinh SN 41.7, bản dịch của Thầy Minh Châu, trích lời vấn đáp giữa ngài Godatta và gia chủ Citta (một cư sĩ thượng thủ) như sau:

 

Ở đây, bạch Thượng tọa, Tỷ-kheo không tác ý tất cả tướng, chứng và trú Vô tướng tâm định. Bạch Thượng tọa, đây gọi là vô tướng tâm giải thoát… Tham dục (ràga) làm sự đo lường, sân làm sự đo lường, si làm sự đo lường. Đối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, chúng bị đoạn tận, bị cắt tận gốc rễ, bị làm như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Bạch Thượng tọa, đối các vô lượng tâm giải thoát, bất động tâm giải thoát được xem là tối thượng. Nhưng bất động tâm giải thoát này trống không, không có tham; trống không, không có sân; trống không, không có si.” (Hết trích)

 

Đức Phật cũng dạy rằng, nếu hành giả vào được sơ thiền, từ đây quán vô thường, cũng sẽ giải thoát, mà không cần tập các pháp định sâu hơn. Bản dịch của Thầy Minh Châu trong Kinh AN 9.36 như sau:

 

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục… chứng đạt và an trú sơ Thiền. Vị ấy ở đây, đối với cái gì thuộc về sắc, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức, các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là mụt nhọt, là mũi tên, là va chạm, là tật bệnh, là khách lạ, là biến hoại, là trống không, là vô ngã. Vị ấy tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, vị ấy hướng dẫn đến giới bất tử: “Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự chỉ tức tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát ái, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn”. Vị ấy trú ở đây, đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc. Nếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp ái ấy, với pháp hỷ ấy, do đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy là vị hóa sanh, tại đấy chứng được Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa.” (Hết trích)

 

Trường hợp, bạn ưa thích tu thiền công án? Người viết đề nghị rằng bạn nên chọn công án Tiếng Vỗ Của Một Bàn Tay. Đây là công án do Thiền sư Bạch Ẩn đưa ra cho học nhân chọn làm câu hỏi để quan sát. Nếu bạn có thì giờ, bạn nên đọc lại quyển 4 trong Kinh Lăng Nghiêm (nên đối chiếu nhiều bản dịch và chú giải cho quyển 4), phần nói về Đức Phật bảo ngài La Hầu La gõ tiếng chuông rồi hỏi, nghe được những gì khi gõ chuông và khi không gõ chuông. Nghĩa là, tánh nghe vẫn hiển lộ thường trực, bất kể khi có tiếng hay không có tiếng, bất kể khi bạn thức hay ngủ. Nhưng bạn đừng bận tâm mọi chuyện lý luận về công án Tiếng Vỗ Của Một Bàn Tay, bạn chỉ cần lắng nghe và đừng tìm câu trả lời nào hết, hãy hồn nhiên như trẻ nhỏ để tỉnh thức với cái nghe. Hãy giữ tâm không biết, mới thực sự là niệm vô thường.

 

Bạn sẽ thấy rằng, ngay khi bạn chú tâm nghe, chính là bạn đang lắng nghe vô thường, nơi đây tất cả tư lường đều biến mất, đều bị cuốn trôi. Nơi khi lắng nghe, bạn sẽ tự động có chánh kiến, vì tất cả những Có và Không đều bị cuốn trôi mất, bạn sẽ tự động đắc giới vì tham sân si đều vắng bặt trong lắng nghe, bạn sẽ tự động đắc định (ít nhất là sơ Thiền) vì tâm tự động “ly dục, ly bất thiện pháp…” và khi đắc cả giới và định, thì ngay ở niệm lắng nghe đó chính là huệ --- nơi kinh gọi rằng tâm bạn đã không còn vướng gì với quá khứ, hiện tại, và tương lai.

 

GHI CHÚ:

(1)  The whole of the Path in 2 sentences or less - Sutta quotes: https://discourse.suttacentral.net/t/the-whole-of-the-path-in-2-sentences-or-less-sutta-quotes

(2) Easy Paths for attaining Nibbāna. https://download.watnapahpong.org/data/static_media/Easy_paths_English_version_29.pdf

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kể từ ngày 19 tháng 3 năm 2020, Tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội và Tòa Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ tại thành phố Sài Gòn sẽ huỷ tất cả các cuộc hẹn phỏng vấn xin chiếu khán (visa) định cư và chiếu khán không định cư. Phòng chiếu khán sẽ hoạt động lại bình thường ngay khi có thể nhưng hiện tại chưa có thông tin ngày mở cửa cụ thể. Lệ phí xin chiếu khán của qúy vị có hiệu lực tại Việt Nam trong vòng một năm kể từ ngày đóng.
Hiện nay, phong trào dùng cây cỏ thiên nhiên với mục đích chữa bệnh đang gia tăng trong dân chúng. Có người dùng theo lời giới thiệu cuả bạn bè. Có người vì bệnh không chữa được bằng tây y, đã đi tìm thầy thuốc cổ truyền. Nhưng cỏ cây dù thiên nhiên, có loại an toàn, công hiệu, cũng có loại không có công dụng gì, đôi khi nguy hiểm vì tác dụng phụ. Nên nếu đã dùng, thì ta cần biết qua về thảo chất, về dược tính của cỏ cây đó. Trong bài này, dựa vào các tài liệu đáng tin cậy, chúng tôi xin trình bầy đặc tính mấy món dược thảo đang rất phổ thông, mà có thể một số quý vị đang dùng.
Tóc bạc có nguyên nhân chính là di truyền từ ông bà, cha mẹ. Ngoài ra, còn có rất nhiều những nguyên nhân khác làm tóc sớm bạc như tâm lý bất ổn, căng thẳng thần kinh (Stress), bi quan, lo lắng, mất ngủ, cũng làm cho tóc sớm bạc. Nhân vật Ngũ Tử Tư qua một đêm lo lắng đã bạc cả mái tóc trong truyền thuyết Trung Hoa là chuyện có thể xảy ra. Sau đó ông dùng hà thủ ô cùng vài vị thuốc khác chữa được tóc bạc. Nhưng những phương pháp này không chắc chắn có hiệu quả bởi những nguyên nhân kể trên.
H: Hội Đồng Thẩm Mỹ (HĐTM) có nghĩa là gì trong phạm vi hành nghề? Trả lời: Phạm vi hành nghề đề cập đến các dịch vụ khác nhau mà người có bằng hành nghề được phép làm việc theo luật. Ở California, ngành nghề thẩm mỹ được định nghĩa trong Mục 7316 của Bộ luật Kinh doanh và Nghề nghiệp.
Mùa xuân đã về, qua những ngày đông giá. Thời trang mùa xuân với những màu tươi sáng, vải thêu ren trên váy, những màu mạ non, nâu lợt, trắng mát … không bao giờ lỗi thời. Màu tóc khác lạ cũng làm nổi bật nét xuân. Trang Thời Trang & Thẩm Mỹ Việt Báo xin mời các bạn đọc đóng góp thêm hình ảnh các loại: Hình học nghề, hành nghề, tự trang điểm, diện quần áo đẹp, v.v…
Ôn dịch là một trong những thảm họa lớn của nhân loại mà một khi xuất hiện sẽ cướp đi vô số mạng người và để lại vô vàn đau thương và mất mát. Đó chính là những gì cơn đại dịch COVID-19 đang gieo rắc kinh hoàng cho toàn thế giới, không phải chỉ tuần qua mà nhiều tháng trước và sẽ còn kéo dài không biết chừng nào chấm dứt trong những ngày sắp tới.
Hãng thông tấn CNN đã trả lời cho hàng chục ngàn độc giả trên khắp thế giới hỏi về nhiều vấn đề liên quan đến dịch corona. Việt Báo xin trích dịch một số để giúp cho độc giả hiểu rõ hơn về dịch bệnh COVID-19 đang hoành hành. Mua thức ăn từ nhà hàng đem về có an toàn? Vâng, an toàn, nhưng bạn có thể lau sạch lại bên ngoài gói đựng thức ăn để an tâm. Không có bằng chứng cho thấy vi khuẩn corona được lây lan qua thực phẩm, theo Cơ Quan CDC của Mỹ cho biết. Thông thường nó lây qua các giọt nước phun ra từ hệ thống hô hấp lúc người bị nhiễm vi khuẩn corona ho hay nhảy mũi. Nhưng vẫn tốt để khử trùng những đồ đựng thức ăn và rửa tay sau đó, theo Trưởng Ban Y Tế của CNN là Bác Sĩ Sanjay Gupta cho biết. Ông cũng nhấn mạnh rằng vi khuẩn corona là vi khuẩn đường hô hấp, và nó rất dễ dính vào mặt của bạn mà không biết. Chúng ta giữ khoảng cách nơi công cộng cho đến bao lâu? Có lẽ nhiều tháng. Nhưng bạn có thể phải làm điều đó “dài dài,” vì dịch bệnh có thể đến trong nhiều đợt.
Kính thưa quý phụ huynh, Để tuân theo lời kêu gọi của chính quyền trong nỗ lực chống dịch Corona, Ban Tổ Chức cuộc thi Ước Mơ Việt xin công bố vài thay đổi như sau
Các quốc gia khối G20 cam kết “mặt trận thống nhất” hôm Thứ Năm, 26 tháng 3 trong trận chiến chống vi khuẩn corona, nói rằng họ bơm 5,000 tỉ đô la vào kinh tế toàn cầu để chống lại đại dịch giữa những dự đoán suy thoái sâu rộng, theo AFP cho biết.
Tính tới Thứ Năm, 26 tháng 3, Hoa Kỳ đã có 83,545 trường hợp được báo cáo bị lây corona tại 50 tiểu bang và lãnh thổ Mỹ, theo tài liệu từ Đại Học Johns Hopkins cho biết. Hoa Kỳ hiện đã qua mặt số trường hợp bị lây vi khuẩn corona của Hoa Lục và Ý, trước đây là cao nhất trên thế giới. Các nước có người bị lây corona cao kế tiếp là Tây Ban Nha, Pháp, Đức, và Iran.
Một bác sĩ Mỹ gốc Việt tại thành phố Garden Grove là một trong những vị bác sĩ đầu tiên tại Hoa Kỳ bắt đầu cung cấp thử nghiệm vi khuẩn corona nhanh mà được phổ biến tại Á Châu có thể cung cấp các kết qủa trong vòng 10 phút bằng cách thử nghiệm mẫu máu lấy từ ngón tay, theo bản tin của Báo Orange County Register cho biết hôm Thứ Tư và cập nhật hôm Thứ Năm.
Hà Nội đã ra lệnh hạn chế tụ tập nơi công cộng và đóng cửa các dịch vụ không quan trọng cho đến khi có thông báo khác như một phần của các biện pháp giảm bớt lây lan của vi khuẩn corona, theo thông tin từ chính quyền Hà Nội mà Reuters cho được cho biết hôm Thứ Tư.
Với tỉ số phiếu 96 trên 0, Thượng Viện Hoa Kỳ đã thông qua gói thỏa hiệp kích thích kinh tế lên tới 2,000 tỉ đôla ngay trước giữa đêm Thứ Tư, 25 tháng 3 năm 2020, chấm dứt nhiều ngày bế tắc và gửi dự luật tới Hạ Viện – mà Chủ Tịch Hạ Viện Nancy Pelosi nói là sẽ sớm thông qua dự luật lịch sử để mang tài trợ tới cho các cá nhân, tiểu thương, và đại công ty “với sự hậu thuẫn mạnh của lưỡng đảng.”
Việt Nam đã đưa hàng chục ngàn người vào các trại cách ly khi làn song công dân từ hải ngoại trở về nhà để trốn đại dịch vi khuẩn corona lây lan tại Châu Âu và Hoa Kỳ, theo bản tin của Reuters cho biết hôm Thứ Năm, 26 tháng 3.
Thiệt là đại họa. Trong họa có phúc nếu Tập Cận Bình nhận thức được rằng khi chưa có khả năng kiểm soát được một con vi khuẩn thì chớ có nuôi tham vọng làm bá chủ toàn cầu. Qua coronavirus, tôi cũng hy vọng rằng dân tộc Trung Hoa (nói riêng) và nhân loại (nói chung) sẽ không tiếp tục để yên cho một thằng điên đẩy hết cả mọi người xuống hố.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.