Hôm nay,  

Song ngữ: Praying and chanting sutras / Cầu nguyện và tụng kinh

07/12/202309:33:00(Xem: 7163)
blank 

Cầu nguyện và tụng kinh

 

Tâm Diệu

 

Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường giải thoát. Giải thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi. Tuy cùng đi trên một con đường, nhưng vì con người có nhiều tâm tính, trình độ, khả năng và căn cơ khác nhau, lại vì tùy hoàn cảnh, tùy phong tục, tập quán, luật lệ thay đổi theo từng địa phương và tùy thời điểm, cho nên Đức Phật đã đưa ra vô số phương tiện khác nhau, thường được tiêu biểu bằng con số 84 nghìn pháp môn, để hướng dẫn mọi người đạt đến cứu cánh giác ngộ, giải thoát. Cầu nguyện và tụng kinh, tuy không phải là cứu cánh, nhưng cũng là một trong 84 nghìn pháp môn.

 

CẦU NGUYỆN

 

Thời Đức Phật tại thế, có chàng trai trẻ đến xin Phật làm lễ cầu siêu cho người cha vừa quá vãng. Biết rằng chàng trai trẻ tràn ngập nỗi đau khổ chắc khó có thể hiểu được những lý lẽ trong lúc này, nên Đức Phật đã phải dùng phương tiện bằng hình ảnh cụ thể với những đặc tính đối lập, một hòn đá và một lon dầu, cả hai được ném xuống hồ, đá nặng chìm xuống và dầu nhẹ nổi lên.  Đức Phật trả lời, như một hòn đá nặng được thả chìm xuống đáy hồ, cho dù với sức cầu nguyện của số đông, hòn đá vẫn không thể nổi lên mặt nước. Qua đó, Đức Phật khẳng định nếu con người tạo nghiệp xấu thì chịu quả báo xấu và tạo nghiệp tốt thì được hưởng quả báo tốt, cầu nguyện không thể làm thay đổi được nghiệp lực, nhất là khi nghiệp đã chín muồi. Rõ ràng, cầu nguyện để mong giải tội, xóa sạch ác nghiệp đã tạo, phó thác hoàn toàn vào tha lực như các Bà la môn hằng tin tưởng là một việc làm vô ích. [01]

 

Tuy nhiên, trong một vài trường hợp khác, cũng trong kinh Pali, Đức Phật cho thấy sự cầu nguyện có ảnh hưởng đến người khác và môi trường sống chung quanh.  Điển hình là trường hợp Tỳ kheo Angulimāla (Vô Não), ông vốn là một tay cướp giết người nổi tiếng, nhưng Angulimāla được Phật hoá độ, trở thành Tỳ kheo. Một hôm, Angulimāla đi khất thực, gặp một người đàn bà sắp lâm bồn đang rên siết đau đớn bên đường. Không biết làm thế nào, Angulimāla trở về hỏi Đức Phật. Đức Phật khuyên Angulimāla đem lời sau đây nói với người đàn bà: “Này cô, từ ngày được sanh vào Thánh tộc (nghĩa là từ ngày tôi xuất gia), tôi chưa hề có ý tiêu diệt đời sống của một sinh vật nào. Do lời chân thật này, ước mong cô được vuông tròn và con của cô được bình an vô sự.”[02] Angulimāla học thuộc lòng bài kinh, rồi đi đến nơi, ngồi cách người phụ nữ một bức màn che, đọc lại với lòng chân thật. Người mẹ đau đớn liền sanh được dễ dàng.

 

Đến nay bài kinh Angulimāla Paritta [03] này vẫn còn được lưu hành ở một số quốc gia Phật giáo Nam Truyền. Điều này cho thấy năng lực nội tại (qua tâm từ và giữ giới) của hành giả có thể có tác dụng đến ngoại giới, đến môi trường chung quanh và ảnh hưởng ấy lại được chuyển tải bởi ngôn ngữ (lời kinh).  Sức mạnh của tâm từ và năng lực trì giới của Tôn gỉa Angulimāla đã chuyển hoá tai họa của sản phụ, khiến cho mẹ con được an lành.

 

Cũng vào thời Phật, có một số tỳ kheo sống trong rừng sâu bị rắn độc cắn bị thương nhiều có khi gây tổn hại đến sinh mệnh, nên Phật đã dạy các tỳ kheo ấy hãy rải tâm từ đến các loài rắn độc thì sẽ tránh khỏi. Phật dạy bài kệ. Nội dung bài kệ không phải là những câu thần chú bí hiểm, mà chỉ là những lời ước nguyện, mong cho tâm từ của hành giả lan toả đến chúa tể các loài rắn độc, các sinh vật không chân, hai chân và bốn chân; ước nguyện chúng sinh các loại đều được an lành, không làm hại đến tỳ kheo. Văn ước nguyện này được gọi là “hộ chú” (parittam). [04]

 

Trong thời cận đại, một vị  bác sĩ người Pháp qua Việt Nam làm các việc từ thiện ở những năm đầu thập niên thế kỷ 20 cũng xác nhận rằng nhờ “tâm từ” mà ông đã thoát được nạn rắn độc. Đó là trường hợp bác sĩ Yersin: “Năm 1894 bác sĩ Yersin đi từ cao nguyên Lang Bian đến Darlac rồi từ Darlac đến Attopeu, một bữa nọ bác sĩ đang đi trong rừng, mắt chăm chú nhìn lên các ngọn cây cao, thì bỗng nghe sau lưng có tiếng động. Quay lại thì ngó thấy một con rắn hổ mang to lớn đứng thẳng lên trên đuôi, phùng mang le nọc độc.  Bác sĩ Yersin đứng yên, thái độ hoàn toàn bình thản. Rắn lắc lư chiếc đầu dẹp muốn nhảy đến chụp, nhưng lại trù trừ. Hồi lâu hạ mình xuống vụt phóng vào bụi rậm rồi đi mất. Nghe được câu chuyện, có người đến hỏi bác sĩ có phải nhờ thuật thôi miên mà thoát nạn chăng? Bác sĩ cười đáp: “Rắn độc cũng như thú dữ, cắn người chỉ để tự vệ. Chúng đều có linh tính. Một khi nhận biết rằng mình không có ác tâm, ác ý đối với chúng thì không bao giờ chúng làm hại mình”[05] .

 

 

Trên đây là một số trường hợp cầu an cứu hộ có tính cách cá nhân cho mình hoặc cho người, nương nhờ vào năng lực từ tâm và trì giới.  Trong trường hợp số đông chúng sinh như các vùng bị thiên tai, bão lụt làm mất tích và chết nhiều người, dẫn đến các bệnh dịch tàn phá khác. Phật giáo, ngoài những nỗ lực cứu giúp bằng các phương tiện vật chất còn có biện pháp cứu hộ khác bằng năng lực cầu nguyện của số đông với tâm từ bi, với chánh tín và chánh kiến qua việc đọc tụng kinh Châu Báu [06] như tại các quốc gia theo truyền thống Phật giáo Nam truyền thường áp dụng.

 

Như thế có thể nói rằng ngoài tự lực, trong Phật giáo còn có tha lực và cầu nguyện. Sự cầu nguyện có thể được giải thích như là một ý lực mạnh mẽ muốn chuyển hóa nghiệp lực đối với tự thân đồng thời hỗ trợ cho tha nhân chuyển hóa nghiệp lực của họ, mà chủ yếu là sức mạnh của tâm từ bigiữ giới luật. Tuy nhiên, điều chánh yếu là việc cầu nguyện phải phù hợp với lý và pháp. Hòa thượng Tịnh Không, trong một bài giảng có nói rằng việc cầu nguyện sẽ được hiệu nghiệm nhưng phải là “Như lý như pháp mà cầu”. Như lý như pháp là phải vì mục đích hạnh phúc của số đông, của tất cả chúng sinh, không chỉ riêng cho mình.

 

TỤNG KINH

 

Tụng kinh là cách hành trì rất phổ biến của cả hai trường phái Phật giáo Nam Truyền và Bắc Truyền.

 

Kinh có nghĩa là những lời Phật dạy, bao gồm những bài thuyết pháp của Đức Phật từ buổi thuyết pháp đầu tiên tại Ba La Nại cho đến lúc Phật nhập Niết Bàn.

 

Tụng kinh là để ôn lại những lời Phật dạy và để tự nhắc nhở mình ứng dụng lời của Phật dạy vào cuộc sống hằng ngày là không làm các việc ác, làm các việc lành và tự thanh lọc tâm ý.  Khi tụng kinh, do chú tâm vào lời kinh nên cả ba nghiệp là thân, khẩu và ý không có cơ hội tạo tác.  Do đó xa lìa được các gốc rễ của khổ đau như tham lam, sân hận, si mê, đem lại lợi lạc cho mình và người.

 

Nhiều bài kinh quan trọng từ giáo lý căn bản của Đức Phật được chọn ra từ các bộ kinh. Tên những bộ kinh nguyên thủy bằng chữ Pali được chọn ra là: Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya), Trung Bộ Kinh (Majjiima Nikaya), Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya), Tăng Chi Bộ Kinh, (Anguttara Nikaya) và Tiểu Bộ Kinh (Khuđaka Nikaya).  Các Kinh nguyên thủy bằng chữ Sanskrit gồm có các bộ A Hàm (Agamas) như Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, và Tạp A Hàm (tương đương với các bộ Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh, và Tiểu Bộ Kinh thuộc văn hệ Pali). Ngoài ra còn có các kinh thuộc Phật giáo Bắc Truyền như: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Kim Cang, Kinh Đại Bát Nhã, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Đại Bảo Tích, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Viên Giác, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, Kinh Duy Ma Cật, Kinh A Di Đà, và còn rất nhiều nữa.

 

Những kinh mà người Phật tử tụng trong truyền thống Phật giáo Nam Truyền để cầu an là Kinh Châu Báu và Kinh Phật Lực. Cầu siêu là Kinh Vô Ngã Tướng và Kinh Hồi Hướng Vong Linh.  Đối với Phật giáo Bắc truyền kinh Cầu an là Kinh Phổ Môn, Knh Dược Sư và cầu siêu là Kinh A Di Đà và Kinh Địa Tạng.

 

 “Cầu An” có nghĩa là ước nguyện cho chính chúng ta hay cho người khác tránh khỏi các hình thái của ma quỷ, bất hạnh, đau ốm, và ảnh hưởng xấu của những sự thay đổi môi trường sống trong hệ thống hành tinh cũng như để đặt tin tưởng nơi tự tâm bằng chính tâm từ bi, chánh tín, chánh kiến và năng lực giữ giới hạnh của chúng ta. Còn “Cầu Siêu” là nguyện cầu cho những người thân quá cố hoặc bạn bè quen hay không quen của chúng ta, nhưng vì tâm từ, vì họ mà làm những việc từ thiện để hồi hướng cho họ được nương vào phước lành đó mà vượt thoát khỏi ba đường ác.

 

Việc tránh ác, làm thiện và giữ giới của mỗi cá nhân và của số đông, hợp với sức mạnh gia hộ của thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát, của chư Phật và các vị thiện thần có thể đem lại kết quả, đạt được mục đích cầu an như ý lực mong muốn. Sự gia hộ mà trong kinh sách thường nói đến như là một tha lực, là điều rất khó giải thích, chỉ có thể cảm nhận được bằng kinh nghiệm bản thân.

 

 

Chú Thích:

 

[01] HT. Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ Tập IV Thiên 6 xứ Ch.8 Đoạn 6:

 

[02] HT. Narada Maha Thera, Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998, Đức Phật và Phật Pháp

 

[03] HT. Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ, Angulimala Sutta, kinh thứ 86.

 

[04] Suzuki - TT. Thích Tuệ Sỹ, Thiền và Bát Nhã,  Viện CĐPH Hải Đức, 2004.

 

[05] Quách Tấn, Xứ Trầm hương. Hội Văn học nghệ thuật Khánh Hòa tái bản 2003.

 

[06] HT. Thích Minh Châu, Kinh Tiểu Bộ Tập I Kinh Tập, (I) Kinh Châu Báu (Ratana Sutta) (Sn 39)

 

(Trích từ sách Phật Pháp Trong Đời Sống, Nhà xuất bản Hồng Đức 2014)

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/p22a21700/06-cau-nguyen-va-tung-kinh

 

.... o ....

 

Praying and chanting sutras

 

Author: Tâm Diệu

Translated by Nguyên Giác

 

At its core, Buddhism is a path to liberation. Buddhists who follow this path strive to distance themselves from suffering and break free from the cycle of birth and death. Although the path to liberation in Buddhism is universal, practitioners have diverse temperaments, abilities, and conditions. This is because the approach to enlightenment depends on various factors such as circumstances, customs, regional laws, and the era in which one lives. The Buddha, recognizing this diversity, offered numerous methods, symbolized by the number 84,000, to guide individuals towards the ultimate goal of enlightenment and liberation. Praying and chanting sutras, although not the ultimate method, is also one of the 84,000 methods.

 

PRAYING

 

During Buddha's time, a young man came to ask Buddha to perform a prayer ceremony for his father, who had just passed away. Knowing that the young man was filled with suffering and could hardly understand the arguments at this time, the Buddha had to use a concrete image with contrasting characteristics: a stone and a jar of oil. After both were thrown into the lake, the heavy rock sank while the light oil floated to the surface. Buddha replied that, just like a heavy stone dropped to the bottom of a lake, even with the prayers of many people, the stone could not float to the surface. The Buddha affirmed that if people engage in bad deeds, they will receive bad karma, while if they engage in good deeds, they will enjoy good karma. Prayers cannot change the karmic outcomes, especially when the karma has already matured. Obviously, praying to absolve sins and erase the negative karma you have accumulated, while completely entrusting yourself to the power of others, as the Brahmins always believe, is a futile endeavor.

 

However, in a few other cases, as mentioned in the Pali scriptures, the Buddha demonstrated that prayer can have an influence on both individuals and the surrounding environment. Like the case of Bhikkhu Angulimāla, in the past, he was a notorious murderer before being converted by the Buddha and becoming a monk. One day, Angulimāla went to beg for alms and encountered a pregnant woman in distress, moaning in pain on the side of the road. Not knowing what to do, Angulimāla returned to ask the Buddha. The Buddha advised Angulimāla to say the following to the woman: "Dear lady, since the day I was born into the Holy Clan (that is, since the day I became a monk), I have never had any intention to harm or take the life of any living being. May you find peace and may your newborn baby be safe and sound, as these words hold true." Angulimāla memorized the saying, then went to the place, sat a few feet away from the pregnant woman, and read it again with sincerity. The mother immediately felt less pain and gave birth easily.

 

The Angulimāla Paritta Sutta is still circulated in some Theravada Buddhist countries to this day. This demonstrates that the inner capacity of the practitioner (through compassion and adherence to precepts) can impact the external world and the surrounding environment. This influence is communicated through the language used in the sutta. The power of Venerable Angulimāla's compassion and his ability to uphold precepts transformed the misfortune of the pregnant woman, ensuring the safety of both her and her newborn baby.

 

Also, during the time of the Buddha, there were monks who lived in remote forests and were occasionally bitten by venomous snakes, resulting in injuries that posed a threat to their lives. Therefore, the Buddha taught the monks to cultivate compassion towards poisonous snakes, ensuring their safety. Buddha taught the monks a verse. The content of the verse is not a mysterious mantra, but rather a simple wish. It expresses the hope that the practitioner's compassion will extend to all beings, including poisonous snakes, creatures without legs, those with two legs, and those with four legs. The verse wishes for the safety and well-being of all living beings and for no harm to come to monks. This written wish is called a "protective mantra" (parittam).

  

In modern times, a French doctor who came to Vietnam to do charity work in the early 20th century also confirmed that he was able to escape from poisonous snakes thanks to his "compassion." That was the case with Dr. Yersin. In 1894, Dr. Yersin traveled from the Lang Bian plateau to Darlac, and then from Darlac to Attopeu. One day, the doctor was walking in the forest, gazing up at the towering trees, when he suddenly heard a noise behind him. Turning around, he saw a large cobra standing upright on its tail, releasing venom. Doctor Yersin stood still, maintaining a completely calm demeanor. The snake shook its flat head and attempted to lunge at the doctor, but hesitated. After a while, the snake lowered itself, jumped into the bushes, and disappeared. After hearing the story, someone approached the doctor to inquire whether he had used hypnosis to escape the danger. The doctor smiled and replied, "Poisonous snakes are similar to wild animals; they only bite people in self-defense. They all have premonitions. Once you realize that you harbor no malice or hostility towards them, they will never harm you."

 

Above are some personal instances of praying for safety for oneself or others, relying on the power of compassion, and adhering to precepts. In situations involving a significant number of living beings, such as areas impacted by natural disasters, storms, and floods, numerous individuals go missing and perish, resulting in additional catastrophic outbreaks. Buddhism, in addition to providing material assistance, also offers other forms of support through the collective power of prayer, rooted in compassion, right faith, and right view. One such practice is the recitation and chanting of the Ratana Sutta, which is commonly observed in Theravada Buddhist countries.

 

So, it can be said that in addition to relying on one's own strength, Buddhism also emphasizes reliance on the strength of others and the power of prayer. The practice of prayer can be understood as a sincere intention to change one's own karma while also assisting others in transforming their karma. It is primarily driven by compassion and the commitment to uphold moral principles. However, the main thing is that prayer must be in accordance with reason and dharma. In a sermon, Venerable Tinh Khong said that prayer can be effective, but it must be “practiced in accordance with reason and with the dharma.” Practice in accordance with reason and dharma must be for the sake of the happiness of the majority of all sentient beings, not just for oneself.

CHANTING SUTRAS

Chanting sutras is a widely practiced tradition in both Southern and Northern Buddhism.

 

Sutras are the teachings of the Buddha, encompassing his sermons from the first sermon at Ba La Nai until his entry into Nirvana.

  

Chanting sutras is a way to study the teachings of the Buddha and to remind the chanter to apply those teachings in their everyday life. This involves refraining from engaging in harmful actions, actively engaging in virtuous actions, and cultivating a pure mind. When chanting, due to focusing on the words of the sutra, there is no opportunity for the three karmic actions of body, speech, and mind to arise. Therefore, by avoiding the causes of suffering, such as greed, anger, and ignorance, you can bring benefits to both yourself and others.

 

Many important suttas from the Buddha's fundamental teachings were selected from the sutras. The selected names of the early Pali scriptures are: Digha Nikaya, Majjhima Nikaya, Samyutta Nikaya, Anguttara Nikaya, and Khuddaka Nikaya. Early Buddhist Sutras in Sanskrit include Agamas such as Dīrgha Āgama, Madhyama Āgama, Saṃyukta Āgama, and Ekottara Āgama (equivalent to Digha Nikaya, Majjhima Nikaya, Samyutta Nikaya, and Anguttara Nikaya in the Pali Canon).

 

There are also sutras in Northern Buddhism, such as the Lotus Sutra of Wonderful Dharma, the Avatamsaka Sutra, the Diamond Sutra, the Maha Prajnaparamita Sutra, the Mahaparinirvana Sutra, the Great Treasure Sutra, the Shurangama Sutra, the Perfect Enlightenment Sutra, the Heart Sutra, the Vimalakirti Sutra, the Amitabha Sutra, and many more.

 

The sutras recited by Buddhists in the Southern Buddhist tradition to pray for peace are the Ratana Sutta and the Buddhajayamaṅgalagāṭhā (the Power of Buddha Sutta). For praying for the deceased, they recite the Anattalakkhaṇa Sutta (the No-Self Sutta) and the Sutta Dedicated to the Dead. For Northern Buddhism, the sutras used to pray for peace include the Universal Gateway Sutra and the Medicine Buddha Sutra. On the other hand, the Amitabha Sutra and the Ksitigarbha Sutra are recited to pray for the deceased.

 

Praying for Peace means wishing for ourselves and others to be free from all forms of evil, misfortune, illness, and the negative effects of environmental changes in the planetary system. It also means having trust in our own minds, cultivating compassion, having right faith, right view, and the ability to maintain morality. The Requiem Prayer is a prayer offered for our deceased relatives, friends, or even unfamiliar individuals. It is an act of compassion where we perform charitable deeds on their behalf, dedicating the merits of these actions to help them escape the three evil paths and find blessings.

 

Avoiding evil, doing good, and adhering to the precepts, both individually and collectively, along with the benevolent influence of numerous Bodhisattvas, Buddhas, and divine beings, can yield fruitful outcomes, enabling the fulfillment of prayers in accordance with one's desires. The blessing, often referred to as a force of others in the scriptures, is very difficult to explain and can only be felt through personal experience.

 

(Excerpted from the book Live The Buddhist Teachings, Hồng Đức Publishing House, 2014)

 

.... o ....

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Dịch vụ Công Viên Quốc Gia vừa điều chỉnh danh sách ngày vào cửa không thu phí, bỏ Martin Luther King Jr. Day và Juneteenth, đồng thời thêm ngày 14 tháng 6 — Flag Day và sinh nhật Tổng thống Donald Trump. Thay đổi diễn ra chỉ vài tuần sau khi chính quyền Trump thông báo tăng phí đối với du khách không phải công dân hay thường trú nhân. Danh sách mới giữ các ngày lễ có tính chất quốc gia như Presidents’ Day (16/2), Memorial Day (25/5), cuối tuần Độc Lập (3–5/7), Constitution Day (17/9) và Veterans Day (11/11). Hai ngày kỷ niệm nội bộ vẫn còn: 110 năm thành lập NPS (25/8) và ngày sinh Theodore Roosevelt (27/10).
Cuối thập niên 1990, cư dân đảo Vancouver bỗng mắc thương tổn phổi kỳ dị: các nốt u phát triển trong phổi, nhiều người chết mà không rõ nguyên nhân. Điều tra di truyền, mẫu đất và hồ sơ hàng hải cho thấy thủ phạm là Cryptococcus gattii, một loại nấm nhiệt đới vốn không thể sống ở phương Bắc. Hành trình của nấm kéo dài cả thế kỷ: xuất hiện tại Brazil hơn 100 năm trước, theo nước dằn tàu đi qua kênh Panama, trôi dạt quanh Vancouver trong nhiều thập niên, rồi bị sóng thần sau trận động đất Alaska 1964 đẩy vào đất liền. Nấm cần khoảng ba mươi năm để thích nghi với môi trường mới và trở nên độc lực.
Hollywood đang bàn tán về Tilly Norwood, một “diễn viên” được tạo hoàn toàn bằng trí tuệ nhân tạo. Nhân vật này do Eline van der Velden phát triển, trải qua khoảng 2.000 lần chỉnh sửa trước khi được “dạy” cách biểu cảm. Van der Velden nói Tilly chỉ thuộc thể loại AI riêng, không nhằm cạnh tranh vai diễn với diễn viên thật — nhưng giới diễn viên vẫn lo ngại,theo CBS News.
Trong lịch sử, các nhà triết học đã sử dụng các ẩn dụ như "nhà kho", "thư viện" hoặc "kho lưu trữ" để mô tả trí nhớ. Thực ra, những khái niệm này là sự gợi ý khi nói về kinh nghiệm, chứ không phải là những tuyên bố được chứng thực về sự tương quan giữa trí nhớ và cấu trúc não bộ. Tuy nhiên, trong thế kỷ qua, khoa học thần kinh, chủ nghĩa duy vật lại xem những khái niệm ẩn dụ này theo nghĩa đen: Trí nhớ được xem là "khuôn mẫu" hoặc "tập hợp các hoạt động thần kinh", và bằng cách nào đó "nằm" bên trong não bộ. Đây là cách nhìn thuần túy “duy vật”, cho rằng thực tại chỉ bao gồm các yếu tố vật chất vật lý; còn các hiện tượng tinh thần — bao gồm ý thức và trí nhớ — được đơn giản hóa thành các tiến trình vật lý. Điều này có thể dẫn đến sai lầm lớn. Chỉ hiểu theo “nghĩa đen” của ẩn dụ, người ta có thể bỏ qua những vấn đề triết học sâu sắc về bản chất của “tâm trí” (mind), “ý thức” (consciousness) và “trí nhớ” (memory).
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...
Có rất nhiều chữ rất khó để hiểu cho tận tường trên đời này. Và khi gặp chữ khó hiểu, tất nhiên là chuyện dịch từ Anh sang Việt, hay từ Việt sang Anh sẽ rất khó chính xác. Bởi vì, khi những chữ có nhiều nghĩa được chọn dịch theo một nghĩa, hẳn là các nghĩa khác sẽ bị thiếu sót. Trong đó, có chữ “tâm” tưởng là dễ dịch, nhưng hóa ra lại là chữ gây ra vô cùng gian nan. Thêm nữa, tại sao các Thiền sư ưa nói “ba cõi là tâm,” hay nơi khác lại nói, “vạn pháp duy tâm.” Chữ đã khó, mà nghĩa lại càng khó vô cùng tận.
Một video đang lan truyền mạnh trên các trang mạng xã hội về việc Cảnh sát Di trú (ICE) bắt giữ một công dân Hoa Kỳ vì người này “trông giống người Somali.” Nhân viên ICE túm lấy người này, bóp cổ, quật anh ta xuống đất, mặc cho người đàn ông liên tục cầu xin hãy xem chứng minh hộ chiếu kỹ thuật số của mình. Nhưng các nhân viên ICE từ chối.
-- DHS bị chỉ trích vì dùng hình Giáng Sinh cổ động trục xuất nhập cư. -- Hạ Viện Thông Qua Dự Luật Quốc Phòng 900 Tỉ Đô La: Tăng Lương Binh Sĩ, Cải Tổ Cách Mua Sắm Vũ Khí. -- Thẩm Phán Ra Lệnh Thả Kilmar Abrego Garcia Khỏi Trại ICE. - Nhóm môi trường kiện đòi gỡ hình Trump khỏi thẻ vào cửa công viên quốc gia. -- Mỹ Thu Giữ Tàu Dầu Skipper Ngoài Khơi Venezuela Giữa Lúc Căng Thẳng Leo Thang. -- Hoa Kỳ Dọa Trừng Phạt Tòa Án Hình Sự Quốc Tế Nếu ICC Không Loại Trump Khỏi Vòng Truy Tố. -- Châu Âu Giảm Bảo Vệ Người Di Dân Từ Thời Hậu Thế Chiến. -- Trump chính thức bán Thẻ Vàng Vào Mỹ: 1 Triệu Đô. -- Fed Lại Hạ Lãi Suất Vì Lo Ngại Việc Làm Suy Yếu, Dù Lạm Phát Do Thuế Quan Vẫn Cao. -- Tòa Liên Bang Oregon Ngăn Chặn Việc Bắt Giữ Người Biểu Tình Vì Gây Ồn. -- Dịch Sởi Lan Mạnh Tại South Carolina, Hàng Trăm Người Bị Cách Ly. -- YIMBY kiện Thống đốc Newsom về tạm dừng luật xây duplex sau cháy rừng. -- Apple phản đối dự luật an toàn mạng cho trẻ em....
Hôm nay, Dân Biểu Liên Bang Lou Correa (CA-46), thành viên Ủy Ban Nhân Quyền Tom Lantos và Đồng Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Hội Hoa Kỳ Về Việt Nam thông báo ông đã nhận bảo trợ tranh đấu cho nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền của người Việt Nam ông Lê Đình Lượng hiện đang bị giam cầm. Ông Lê Đình Lượng đã bị tuyên án 20 năm tù giam và 5 năm quản thúc tại gia vì những việc làm bảo vệ nhân quyền tại Việt Nam.
-- Trump Mang ‘Khả Năng Chi Trả’ Đi Thử Nghiệm Ở Bang Chiến Trường . -- Dân chủ giành thắng lợi bất ngờ tại Georgia và Florida, báo hiệu làn sóng đổi thay. -- Tòa Chặn Chính Quyền Trump Khai Triển VBQG CA Ở LA. -- Thêm Chánh Án Chấp Thuận Công Khai Hồ Sơ Bồi Thẩm Đoàn Về Vụ Epstein. -- Fed Có Thể Cắt Giảm Lãi Suất Lần Thứ Ba Trong Năm. -- Muốn Có Visa Du Lịch Mỹ Phải Cung Cấp Lịch Sử Dùng Mạng Xã Hội Trong 5 Năm.. -- Người Đoạt Nobel Hòa Bình Vắng Mặt Trong Lễ Trao Giải Ở Olso. -- Bộ Nội An Mở Chiến Dịch Trục Xuất ‘‘You’re Going Ho Ho Home’. -- Gần 200 Đứa Trẻ Là Con Của Người Hiến Tinh Trùng Không Biết Mình Bị Ung Thư. -- Tác Giả Của Tiểu Thuyết Nổi Tiếng ‘Shopaholic’ Qua Đời Ở Tuổi 55. -- Việt Nam Sửa Luật Báo Chí, Gia Tăng Rủi Ro Pháp Lý Cho Phóng Viên. -- Úc Bắt Đầu Cấm Trẻ Dưới 16 Tuổi Dùng Mạng Xã Hội.
MIAMI, Hoa Kỳ – Theo tin của Decision Desk HQ, bà Eileen Higgins thuộc đảng Dân Chủ vừa hạ ông Emilio Gonzalez, ứng viên Cộng Hòa, trong vòng chung kết cuộc tranh cử thị trưởng thành phố Miami – đánh dấu lần đầu tiên từ năm 1997, phe Dân Chủ nắm quyền điều hành khu vực này.
-- Trump chi $12 tỷ ‘giải cứu’, nông dân nói ‘không thể bù đắp’. -- Úc Là Quốc Gia Đầu Tiên Trên Thế Giới Cấm Người Dưới 16 Tuổi Dùng Mạng Xã Hội. -- Trump Không Loại Trừ Khả Năng Đưa Quân Đội Đến Venezuela. -- Các Thống Đốc Dân Chủ Khẳng Định Vị Thế Đối Trọng Với Trump. -- Tòa New York Ra Lệnh Công Bố Hồ Sơ Đại Bồi Thẩm Đoàn Về Ghislaine Maxwell.. -- TCPV Cân Nhắc Xóa Bỏ Hạn Chế Tài Chính Trong Chiến Dịch Bầu Cử. -- Số Việc Làm Trong Tháng Mười Không Thay Đổi. -- Hàng Chục Bé Trai Bị Xâm Hại Tình Dục Khi Tham Gia Hướng Đạo Cơ Đốc Giáo. -- Bộ Tư Pháp Đối Diện Áp Lực Điều Tra Về Tính Hợp Pháp Các Cuộc Tấn Công Tàu Venezuela. -- Giáo Hoàng Leo Gặp Tổng Thống Ukraine.
J431. Harita Jātaka -- Tham đắm có thể chế ngự ngay cả những người học rộng và sức định sâu. Tóm tắt: Một nhà sư chuẩn bị hoàn tục sau khi gặp một phụ nữ xinh đẹp. Đức Phật kể câu chuyện về một nhà khổ hạnh bị mê hoặc khi nhìn thấy hoàng hậu khỏa thân, nhưng vị này không thể lừa dối nhà vua về điều đó, và cuối cùng đạo sĩ đã vượt qua được cơn mê của mình như thế nào.
SAN JOSE (VB) -- Các vị phụ huynh gốc Việt hãy quan sát và dặn dò con em: yêu cầu đừng tham gia bất kỳ hành vi kỳ thị sắc tộc đối với bất kỳ nhóm dân nào. Cộng đồng Bắc California đang sôi động vì nhiều học sinh trung học San Jose tạo hình chữ vạn trên sân bóng đá, đăng ảnh kèm trích dẫn của Hitler lên mạng xã hội. Nhiều cơ quan thông tấn, như báo Guardian, CBS, New York Post, San Francisco Chronicle... đã loan tin này.
Theo phóng viên Nia Prater, báo Intelligencer. Trong suốt nhiệm kỳ thứ hai, chính quyền Trump đã cố gắng theo đuổi các hành động pháp lý chống lại nhiều người bị coi là kẻ thù chính trị của tổng thống, bao gồm cả việc đưa ra cáo buộc gian lận thế chấp khi vay mua nhà đối với Bộ trưởng Tư pháp tiểu bang New York Letitia James và Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Lisa Cook.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.