Hôm nay,  

Song ngữ: Praying and chanting sutras / Cầu nguyện và tụng kinh

07/12/202309:33:00(Xem: 7761)
blank 

Cầu nguyện và tụng kinh

 

Tâm Diệu

 

Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường giải thoát. Giải thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi. Tuy cùng đi trên một con đường, nhưng vì con người có nhiều tâm tính, trình độ, khả năng và căn cơ khác nhau, lại vì tùy hoàn cảnh, tùy phong tục, tập quán, luật lệ thay đổi theo từng địa phương và tùy thời điểm, cho nên Đức Phật đã đưa ra vô số phương tiện khác nhau, thường được tiêu biểu bằng con số 84 nghìn pháp môn, để hướng dẫn mọi người đạt đến cứu cánh giác ngộ, giải thoát. Cầu nguyện và tụng kinh, tuy không phải là cứu cánh, nhưng cũng là một trong 84 nghìn pháp môn.

 

CẦU NGUYỆN

 

Thời Đức Phật tại thế, có chàng trai trẻ đến xin Phật làm lễ cầu siêu cho người cha vừa quá vãng. Biết rằng chàng trai trẻ tràn ngập nỗi đau khổ chắc khó có thể hiểu được những lý lẽ trong lúc này, nên Đức Phật đã phải dùng phương tiện bằng hình ảnh cụ thể với những đặc tính đối lập, một hòn đá và một lon dầu, cả hai được ném xuống hồ, đá nặng chìm xuống và dầu nhẹ nổi lên.  Đức Phật trả lời, như một hòn đá nặng được thả chìm xuống đáy hồ, cho dù với sức cầu nguyện của số đông, hòn đá vẫn không thể nổi lên mặt nước. Qua đó, Đức Phật khẳng định nếu con người tạo nghiệp xấu thì chịu quả báo xấu và tạo nghiệp tốt thì được hưởng quả báo tốt, cầu nguyện không thể làm thay đổi được nghiệp lực, nhất là khi nghiệp đã chín muồi. Rõ ràng, cầu nguyện để mong giải tội, xóa sạch ác nghiệp đã tạo, phó thác hoàn toàn vào tha lực như các Bà la môn hằng tin tưởng là một việc làm vô ích. [01]

 

Tuy nhiên, trong một vài trường hợp khác, cũng trong kinh Pali, Đức Phật cho thấy sự cầu nguyện có ảnh hưởng đến người khác và môi trường sống chung quanh.  Điển hình là trường hợp Tỳ kheo Angulimāla (Vô Não), ông vốn là một tay cướp giết người nổi tiếng, nhưng Angulimāla được Phật hoá độ, trở thành Tỳ kheo. Một hôm, Angulimāla đi khất thực, gặp một người đàn bà sắp lâm bồn đang rên siết đau đớn bên đường. Không biết làm thế nào, Angulimāla trở về hỏi Đức Phật. Đức Phật khuyên Angulimāla đem lời sau đây nói với người đàn bà: “Này cô, từ ngày được sanh vào Thánh tộc (nghĩa là từ ngày tôi xuất gia), tôi chưa hề có ý tiêu diệt đời sống của một sinh vật nào. Do lời chân thật này, ước mong cô được vuông tròn và con của cô được bình an vô sự.”[02] Angulimāla học thuộc lòng bài kinh, rồi đi đến nơi, ngồi cách người phụ nữ một bức màn che, đọc lại với lòng chân thật. Người mẹ đau đớn liền sanh được dễ dàng.

 

Đến nay bài kinh Angulimāla Paritta [03] này vẫn còn được lưu hành ở một số quốc gia Phật giáo Nam Truyền. Điều này cho thấy năng lực nội tại (qua tâm từ và giữ giới) của hành giả có thể có tác dụng đến ngoại giới, đến môi trường chung quanh và ảnh hưởng ấy lại được chuyển tải bởi ngôn ngữ (lời kinh).  Sức mạnh của tâm từ và năng lực trì giới của Tôn gỉa Angulimāla đã chuyển hoá tai họa của sản phụ, khiến cho mẹ con được an lành.

 

Cũng vào thời Phật, có một số tỳ kheo sống trong rừng sâu bị rắn độc cắn bị thương nhiều có khi gây tổn hại đến sinh mệnh, nên Phật đã dạy các tỳ kheo ấy hãy rải tâm từ đến các loài rắn độc thì sẽ tránh khỏi. Phật dạy bài kệ. Nội dung bài kệ không phải là những câu thần chú bí hiểm, mà chỉ là những lời ước nguyện, mong cho tâm từ của hành giả lan toả đến chúa tể các loài rắn độc, các sinh vật không chân, hai chân và bốn chân; ước nguyện chúng sinh các loại đều được an lành, không làm hại đến tỳ kheo. Văn ước nguyện này được gọi là “hộ chú” (parittam). [04]

 

Trong thời cận đại, một vị  bác sĩ người Pháp qua Việt Nam làm các việc từ thiện ở những năm đầu thập niên thế kỷ 20 cũng xác nhận rằng nhờ “tâm từ” mà ông đã thoát được nạn rắn độc. Đó là trường hợp bác sĩ Yersin: “Năm 1894 bác sĩ Yersin đi từ cao nguyên Lang Bian đến Darlac rồi từ Darlac đến Attopeu, một bữa nọ bác sĩ đang đi trong rừng, mắt chăm chú nhìn lên các ngọn cây cao, thì bỗng nghe sau lưng có tiếng động. Quay lại thì ngó thấy một con rắn hổ mang to lớn đứng thẳng lên trên đuôi, phùng mang le nọc độc.  Bác sĩ Yersin đứng yên, thái độ hoàn toàn bình thản. Rắn lắc lư chiếc đầu dẹp muốn nhảy đến chụp, nhưng lại trù trừ. Hồi lâu hạ mình xuống vụt phóng vào bụi rậm rồi đi mất. Nghe được câu chuyện, có người đến hỏi bác sĩ có phải nhờ thuật thôi miên mà thoát nạn chăng? Bác sĩ cười đáp: “Rắn độc cũng như thú dữ, cắn người chỉ để tự vệ. Chúng đều có linh tính. Một khi nhận biết rằng mình không có ác tâm, ác ý đối với chúng thì không bao giờ chúng làm hại mình”[05] .

 

 

Trên đây là một số trường hợp cầu an cứu hộ có tính cách cá nhân cho mình hoặc cho người, nương nhờ vào năng lực từ tâm và trì giới.  Trong trường hợp số đông chúng sinh như các vùng bị thiên tai, bão lụt làm mất tích và chết nhiều người, dẫn đến các bệnh dịch tàn phá khác. Phật giáo, ngoài những nỗ lực cứu giúp bằng các phương tiện vật chất còn có biện pháp cứu hộ khác bằng năng lực cầu nguyện của số đông với tâm từ bi, với chánh tín và chánh kiến qua việc đọc tụng kinh Châu Báu [06] như tại các quốc gia theo truyền thống Phật giáo Nam truyền thường áp dụng.

 

Như thế có thể nói rằng ngoài tự lực, trong Phật giáo còn có tha lực và cầu nguyện. Sự cầu nguyện có thể được giải thích như là một ý lực mạnh mẽ muốn chuyển hóa nghiệp lực đối với tự thân đồng thời hỗ trợ cho tha nhân chuyển hóa nghiệp lực của họ, mà chủ yếu là sức mạnh của tâm từ bigiữ giới luật. Tuy nhiên, điều chánh yếu là việc cầu nguyện phải phù hợp với lý và pháp. Hòa thượng Tịnh Không, trong một bài giảng có nói rằng việc cầu nguyện sẽ được hiệu nghiệm nhưng phải là “Như lý như pháp mà cầu”. Như lý như pháp là phải vì mục đích hạnh phúc của số đông, của tất cả chúng sinh, không chỉ riêng cho mình.

 

TỤNG KINH

 

Tụng kinh là cách hành trì rất phổ biến của cả hai trường phái Phật giáo Nam Truyền và Bắc Truyền.

 

Kinh có nghĩa là những lời Phật dạy, bao gồm những bài thuyết pháp của Đức Phật từ buổi thuyết pháp đầu tiên tại Ba La Nại cho đến lúc Phật nhập Niết Bàn.

 

Tụng kinh là để ôn lại những lời Phật dạy và để tự nhắc nhở mình ứng dụng lời của Phật dạy vào cuộc sống hằng ngày là không làm các việc ác, làm các việc lành và tự thanh lọc tâm ý.  Khi tụng kinh, do chú tâm vào lời kinh nên cả ba nghiệp là thân, khẩu và ý không có cơ hội tạo tác.  Do đó xa lìa được các gốc rễ của khổ đau như tham lam, sân hận, si mê, đem lại lợi lạc cho mình và người.

 

Nhiều bài kinh quan trọng từ giáo lý căn bản của Đức Phật được chọn ra từ các bộ kinh. Tên những bộ kinh nguyên thủy bằng chữ Pali được chọn ra là: Trường Bộ Kinh (Digha Nikaya), Trung Bộ Kinh (Majjiima Nikaya), Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya), Tăng Chi Bộ Kinh, (Anguttara Nikaya) và Tiểu Bộ Kinh (Khuđaka Nikaya).  Các Kinh nguyên thủy bằng chữ Sanskrit gồm có các bộ A Hàm (Agamas) như Trường A Hàm, Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, và Tạp A Hàm (tương đương với các bộ Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh, Tăng Chi Bộ Kinh, và Tiểu Bộ Kinh thuộc văn hệ Pali). Ngoài ra còn có các kinh thuộc Phật giáo Bắc Truyền như: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Kim Cang, Kinh Đại Bát Nhã, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Đại Bảo Tích, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Viên Giác, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, Kinh Duy Ma Cật, Kinh A Di Đà, và còn rất nhiều nữa.

 

Những kinh mà người Phật tử tụng trong truyền thống Phật giáo Nam Truyền để cầu an là Kinh Châu Báu và Kinh Phật Lực. Cầu siêu là Kinh Vô Ngã Tướng và Kinh Hồi Hướng Vong Linh.  Đối với Phật giáo Bắc truyền kinh Cầu an là Kinh Phổ Môn, Knh Dược Sư và cầu siêu là Kinh A Di Đà và Kinh Địa Tạng.

 

 “Cầu An” có nghĩa là ước nguyện cho chính chúng ta hay cho người khác tránh khỏi các hình thái của ma quỷ, bất hạnh, đau ốm, và ảnh hưởng xấu của những sự thay đổi môi trường sống trong hệ thống hành tinh cũng như để đặt tin tưởng nơi tự tâm bằng chính tâm từ bi, chánh tín, chánh kiến và năng lực giữ giới hạnh của chúng ta. Còn “Cầu Siêu” là nguyện cầu cho những người thân quá cố hoặc bạn bè quen hay không quen của chúng ta, nhưng vì tâm từ, vì họ mà làm những việc từ thiện để hồi hướng cho họ được nương vào phước lành đó mà vượt thoát khỏi ba đường ác.

 

Việc tránh ác, làm thiện và giữ giới của mỗi cá nhân và của số đông, hợp với sức mạnh gia hộ của thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát, của chư Phật và các vị thiện thần có thể đem lại kết quả, đạt được mục đích cầu an như ý lực mong muốn. Sự gia hộ mà trong kinh sách thường nói đến như là một tha lực, là điều rất khó giải thích, chỉ có thể cảm nhận được bằng kinh nghiệm bản thân.

 

 

Chú Thích:

 

[01] HT. Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ Tập IV Thiên 6 xứ Ch.8 Đoạn 6:

 

[02] HT. Narada Maha Thera, Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998, Đức Phật và Phật Pháp

 

[03] HT. Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ, Angulimala Sutta, kinh thứ 86.

 

[04] Suzuki - TT. Thích Tuệ Sỹ, Thiền và Bát Nhã,  Viện CĐPH Hải Đức, 2004.

 

[05] Quách Tấn, Xứ Trầm hương. Hội Văn học nghệ thuật Khánh Hòa tái bản 2003.

 

[06] HT. Thích Minh Châu, Kinh Tiểu Bộ Tập I Kinh Tập, (I) Kinh Châu Báu (Ratana Sutta) (Sn 39)

 

(Trích từ sách Phật Pháp Trong Đời Sống, Nhà xuất bản Hồng Đức 2014)

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/p22a21700/06-cau-nguyen-va-tung-kinh

 

.... o ....

 

Praying and chanting sutras

 

Author: Tâm Diệu

Translated by Nguyên Giác

 

At its core, Buddhism is a path to liberation. Buddhists who follow this path strive to distance themselves from suffering and break free from the cycle of birth and death. Although the path to liberation in Buddhism is universal, practitioners have diverse temperaments, abilities, and conditions. This is because the approach to enlightenment depends on various factors such as circumstances, customs, regional laws, and the era in which one lives. The Buddha, recognizing this diversity, offered numerous methods, symbolized by the number 84,000, to guide individuals towards the ultimate goal of enlightenment and liberation. Praying and chanting sutras, although not the ultimate method, is also one of the 84,000 methods.

 

PRAYING

 

During Buddha's time, a young man came to ask Buddha to perform a prayer ceremony for his father, who had just passed away. Knowing that the young man was filled with suffering and could hardly understand the arguments at this time, the Buddha had to use a concrete image with contrasting characteristics: a stone and a jar of oil. After both were thrown into the lake, the heavy rock sank while the light oil floated to the surface. Buddha replied that, just like a heavy stone dropped to the bottom of a lake, even with the prayers of many people, the stone could not float to the surface. The Buddha affirmed that if people engage in bad deeds, they will receive bad karma, while if they engage in good deeds, they will enjoy good karma. Prayers cannot change the karmic outcomes, especially when the karma has already matured. Obviously, praying to absolve sins and erase the negative karma you have accumulated, while completely entrusting yourself to the power of others, as the Brahmins always believe, is a futile endeavor.

 

However, in a few other cases, as mentioned in the Pali scriptures, the Buddha demonstrated that prayer can have an influence on both individuals and the surrounding environment. Like the case of Bhikkhu Angulimāla, in the past, he was a notorious murderer before being converted by the Buddha and becoming a monk. One day, Angulimāla went to beg for alms and encountered a pregnant woman in distress, moaning in pain on the side of the road. Not knowing what to do, Angulimāla returned to ask the Buddha. The Buddha advised Angulimāla to say the following to the woman: "Dear lady, since the day I was born into the Holy Clan (that is, since the day I became a monk), I have never had any intention to harm or take the life of any living being. May you find peace and may your newborn baby be safe and sound, as these words hold true." Angulimāla memorized the saying, then went to the place, sat a few feet away from the pregnant woman, and read it again with sincerity. The mother immediately felt less pain and gave birth easily.

 

The Angulimāla Paritta Sutta is still circulated in some Theravada Buddhist countries to this day. This demonstrates that the inner capacity of the practitioner (through compassion and adherence to precepts) can impact the external world and the surrounding environment. This influence is communicated through the language used in the sutta. The power of Venerable Angulimāla's compassion and his ability to uphold precepts transformed the misfortune of the pregnant woman, ensuring the safety of both her and her newborn baby.

 

Also, during the time of the Buddha, there were monks who lived in remote forests and were occasionally bitten by venomous snakes, resulting in injuries that posed a threat to their lives. Therefore, the Buddha taught the monks to cultivate compassion towards poisonous snakes, ensuring their safety. Buddha taught the monks a verse. The content of the verse is not a mysterious mantra, but rather a simple wish. It expresses the hope that the practitioner's compassion will extend to all beings, including poisonous snakes, creatures without legs, those with two legs, and those with four legs. The verse wishes for the safety and well-being of all living beings and for no harm to come to monks. This written wish is called a "protective mantra" (parittam).

  

In modern times, a French doctor who came to Vietnam to do charity work in the early 20th century also confirmed that he was able to escape from poisonous snakes thanks to his "compassion." That was the case with Dr. Yersin. In 1894, Dr. Yersin traveled from the Lang Bian plateau to Darlac, and then from Darlac to Attopeu. One day, the doctor was walking in the forest, gazing up at the towering trees, when he suddenly heard a noise behind him. Turning around, he saw a large cobra standing upright on its tail, releasing venom. Doctor Yersin stood still, maintaining a completely calm demeanor. The snake shook its flat head and attempted to lunge at the doctor, but hesitated. After a while, the snake lowered itself, jumped into the bushes, and disappeared. After hearing the story, someone approached the doctor to inquire whether he had used hypnosis to escape the danger. The doctor smiled and replied, "Poisonous snakes are similar to wild animals; they only bite people in self-defense. They all have premonitions. Once you realize that you harbor no malice or hostility towards them, they will never harm you."

 

Above are some personal instances of praying for safety for oneself or others, relying on the power of compassion, and adhering to precepts. In situations involving a significant number of living beings, such as areas impacted by natural disasters, storms, and floods, numerous individuals go missing and perish, resulting in additional catastrophic outbreaks. Buddhism, in addition to providing material assistance, also offers other forms of support through the collective power of prayer, rooted in compassion, right faith, and right view. One such practice is the recitation and chanting of the Ratana Sutta, which is commonly observed in Theravada Buddhist countries.

 

So, it can be said that in addition to relying on one's own strength, Buddhism also emphasizes reliance on the strength of others and the power of prayer. The practice of prayer can be understood as a sincere intention to change one's own karma while also assisting others in transforming their karma. It is primarily driven by compassion and the commitment to uphold moral principles. However, the main thing is that prayer must be in accordance with reason and dharma. In a sermon, Venerable Tinh Khong said that prayer can be effective, but it must be “practiced in accordance with reason and with the dharma.” Practice in accordance with reason and dharma must be for the sake of the happiness of the majority of all sentient beings, not just for oneself.

CHANTING SUTRAS

Chanting sutras is a widely practiced tradition in both Southern and Northern Buddhism.

 

Sutras are the teachings of the Buddha, encompassing his sermons from the first sermon at Ba La Nai until his entry into Nirvana.

  

Chanting sutras is a way to study the teachings of the Buddha and to remind the chanter to apply those teachings in their everyday life. This involves refraining from engaging in harmful actions, actively engaging in virtuous actions, and cultivating a pure mind. When chanting, due to focusing on the words of the sutra, there is no opportunity for the three karmic actions of body, speech, and mind to arise. Therefore, by avoiding the causes of suffering, such as greed, anger, and ignorance, you can bring benefits to both yourself and others.

 

Many important suttas from the Buddha's fundamental teachings were selected from the sutras. The selected names of the early Pali scriptures are: Digha Nikaya, Majjhima Nikaya, Samyutta Nikaya, Anguttara Nikaya, and Khuddaka Nikaya. Early Buddhist Sutras in Sanskrit include Agamas such as Dīrgha Āgama, Madhyama Āgama, Saṃyukta Āgama, and Ekottara Āgama (equivalent to Digha Nikaya, Majjhima Nikaya, Samyutta Nikaya, and Anguttara Nikaya in the Pali Canon).

 

There are also sutras in Northern Buddhism, such as the Lotus Sutra of Wonderful Dharma, the Avatamsaka Sutra, the Diamond Sutra, the Maha Prajnaparamita Sutra, the Mahaparinirvana Sutra, the Great Treasure Sutra, the Shurangama Sutra, the Perfect Enlightenment Sutra, the Heart Sutra, the Vimalakirti Sutra, the Amitabha Sutra, and many more.

 

The sutras recited by Buddhists in the Southern Buddhist tradition to pray for peace are the Ratana Sutta and the Buddhajayamaṅgalagāṭhā (the Power of Buddha Sutta). For praying for the deceased, they recite the Anattalakkhaṇa Sutta (the No-Self Sutta) and the Sutta Dedicated to the Dead. For Northern Buddhism, the sutras used to pray for peace include the Universal Gateway Sutra and the Medicine Buddha Sutra. On the other hand, the Amitabha Sutra and the Ksitigarbha Sutra are recited to pray for the deceased.

 

Praying for Peace means wishing for ourselves and others to be free from all forms of evil, misfortune, illness, and the negative effects of environmental changes in the planetary system. It also means having trust in our own minds, cultivating compassion, having right faith, right view, and the ability to maintain morality. The Requiem Prayer is a prayer offered for our deceased relatives, friends, or even unfamiliar individuals. It is an act of compassion where we perform charitable deeds on their behalf, dedicating the merits of these actions to help them escape the three evil paths and find blessings.

 

Avoiding evil, doing good, and adhering to the precepts, both individually and collectively, along with the benevolent influence of numerous Bodhisattvas, Buddhas, and divine beings, can yield fruitful outcomes, enabling the fulfillment of prayers in accordance with one's desires. The blessing, often referred to as a force of others in the scriptures, is very difficult to explain and can only be felt through personal experience.

 

(Excerpted from the book Live The Buddhist Teachings, Hồng Đức Publishing House, 2014)

 

.... o ....

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tuần này sẽ đánh dấu nhiều mốc ngoặc mới trong đại dịch vi khuẩn corona khi các trường hợp bị lây nhiễm tại Hoa Kỳ đã hơn 1 triệu, ngày càng có nhiều cơ sở kinh doanh tái mở cửa và một số nhân viên y tế địa phương bắt đầu thử nghiệm kháng thể cho công chúng, theo bản tin của CNN cho biết hôm Thứ Hai, 27 tháng 4 năm 2020. Tính tới Thứ Hai, Hoa Kỳ đã có 1,008,571 trường hợp bị lây, với 56,521 người thiệt mạng.
3 videos ngắn cho thấy “hiện tượng xuất hiện trong không gian không xác định” đã được công bố bởi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Các video, đã được phổ biến trước đây bởi một công ty tư nhân, cho thấy cái gì đó trông giống các vật bay không xác định di chuyển nhanh trong khi được thu hình bởi các máy thu hồng ngoại tuyến, theo CNN tường trình cho biết. 2 trong 3 video, các quân nhân có thể nghe được sự phản ứng các vật bay nhanh như thế nào. Một giọng nói cho thấy nó có thể là một chiếc robot.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tối nay 22 Tháng Tư, chính quyền Trump đã ban hành một Sắc lệnh mở rộng những hạn chế về nhập cư trong một nỗ lực rộng lớn để tiếp tục chương trình bài ngoại nhằm đánh lạc hướng người Mỹ về thất bại của chính họ qua các giải pháp thích ứng với đại dịch coronavirus. Sắc lệnh này được xây dựng trên một số chính sách chống người nhập cư do chính quyền đưa ra trong vài năm qua đóng cửa gần như tất cả các con đường hợp pháp để nhập cư.
Bắt đầu từ sau giữa tháng Ba 2020, hầu hết các doanh nghiệp không thiết yếu trên khắp Hoa Kỳ đều đã lần lượt được lệnh phải đóng cửa để ngân chận sự lây lan của Coronavirus, trong đó có hàng chục ngàn tiệm Nail của người gốc Việt. Vì buộc phải đóng cửa một cách bất ngờ và cũng bởi chưa đến ngày trả lương theo định kỳ, nhiều chủ tiệm Nail đã không kịp thanh toán cho nhân viên khoản tiền lương của những ngày đã làm việc từ sau lần lãnh lương trước đó cho đến ngày ngưng làm việc vì Coronavirus. Ngoài ra, vì nghĩ rằng sẽ không bị buộc phải đóng cửa quá lâu, nhiều chủ tiệm Nail dự tính sẽ trả đủ tiền lương ngay khi nhân viên trở lại làm việc. Tuy nhiên, rất ít chủ doanh nghiệp hiểu rằng không thanh toán tiền lương theo đúng quy định cho nhân viên sau khi nghỉ việc, sẽ là nguyên nhân dẫn đến vô số rắc rối về pháp lý.
Những người có khuynh hướng cực đoan trong chính kiến, dù hữu khuynh hay tả khuynh, đều có những đặc điểm giống nhau và rất khác người ôn hoà. Bài viết này tóm lược một nghiên cứu tâm lý học đăng trên Sage Journals tháng Giêng 2019. Hy vọng nó sẽ giúp ta hiểu thêm về hiện tượng tâm lý chính trị cực đoan để tránh bị khích động, đồng thời giúp ta tìm ra cách hoá giải. Xin lưu ý “hữu khuynh”và “tả khuynh” trong bài được dùng theo định nghĩa thông thường và hoàn toàn không hàm ý tốt hay xấu. Trong chính trị học, cộng đồng con người thường được chia làm ba nhóm: cấp tiến (liberal), trung hoà (moderate) và bảo thủ (conservative). Sự phân cách này phần lớn xuất phát một cách tự nhiên, nhưng nó cũng có thể được nhào nặn thêm bởi giáo dục, truyền thống, truyền thông, xã hội v.v.
nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Chết phải là một chuyến du lịch tuyệt vời vì chưa có một ai đã trở về!(“La mort doit être un beau voyage puisque personne n'en est revenue”). Thông thường trong những dịp Tết, người đời thường chúc tụng lẫn nhau sống thọ đến trăm tuổi. Không phải ai muốn chết lúc nào là chết được đâu. Phải tới số mới chết. Trời kêu ai nấy dạ mà Sống quá thọ có tốt, có cần thiết không? Không có ai nghĩ giống ai hết. Đặt câu hỏi như trên có thể làm nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng đó là sự thật. Tuổi thọ (longévité) trong điều kiện sức khoẻ bình thường, không ngừng gia tăng thêm lên mãi tại các quốc gia kỹ nghệ giàu có... Sự gia tăng nầy thật ra phải được xem như là một sự kéo dài của tuổi trẻ (jeunesse) hơn là một sự kéo dài của…tuổi già (vieillesse). Tại sao chúng ta già? Tuổi thọ đến lúc nào sẽ dừng lại? Nhân loại đã đạt được đến mức nầy hay chưa?
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
Vào lúc 5:00 giờ chiều Chủ Nhật 26/04/2020, Hòa Thượng Thích Phước Tịnh đã có buổi nói chuyện trên mạng lần thứ hai với nhóm Phật tử Giớ Trẻ Mây Từ, với chủ đề những điều Phật tử nên làm trong mùa đại dịch COVID-19 đang tiếp tục hoành hành.
New York bị thiệt hại nặng nề hơn bất cứ khu vực nào tại Hoa Kỳ bởi đại dịch vi khuẩn corona tính đến nay, 26 tháng 4, và ác mộng của tiểu bang vẫn còn chưa hết. Hôm Thứ Bảy, 25 tháng 4, có 5,902 người đã thử nghiệm dương tính với vi khuẩn corona, và trong khi đó là sự sút giảm từ cao điểm của tiểu bang (khi một ngày chứng kiến hơn 10,000 người thử nghiệm dương tính), tiểu bang này vẫn còn nhiều trường hợp bị lây mới hơn 25 tiểu bang đã bị trong tổng số hơn 3 tháng kể từ vụ lây lan của vi khuẩn vào Mỹ bắt đầu.
Nam Hàn tiếp tục đổ nước vào suy đoán gia tăng về sức khỏe của lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong Un, nói với CNN rằng ông ấy “còn sống và khỏe.” “Lập trường của chính phủ chúng tôi là vững vàng,” theo Moon Chung-in, cố vấn hàng đầu về chính sách đối ngoại cho Tổng Thống Nam Hàn Moon Jae-in, nói với CNN. “Kim Jong Un còn sống và khỏe. Ông ấy đã và đang ở tại khu vực Wonsan kể từ ngày 13 tháng 4. Không có biến đổi gì đáng nghi ngờ tính đến nay được phát hiện cả.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.