Hôm nay,  

Song ngữ: A Monastic, a Temple Priest, or a Ritual Master? // Thầy tu, thầy chùa, hay thầy cúng

15/12/202319:39:00(Xem: 6872)
blank 

Thầy tu, thầy chùa, hay thầy cúng

 

Tâm Diệu

  

Thuở còn nhỏ ở làng quê đất Bắc, chúng tôi không biết rõ là thầy ăn chay hay ăn mặn, có vợ, có con hay sống một mình. Chỉ biết thầy trông nom ngôi chùa và thỉnh thoảng chúng tôi thấy thầy đến nhà người dân cúng kiếng, tụng kinh gõ mõ. Lũ trẻ trong làng thường gọi thầy là Thầy Chùa vì thấy thầy ở trong chùa và trông coi ngôi chùa của làng, thấy thầy thỉnh thoảng đi cúng đám, nên có đứa gọi thầy là Thầy Cúng. Cho đến nay nhiều người vẫn lẫn lộn ba vị, Thầy Tu, Thầy ChùaThầy Cúng như chúng tôi hồi còn nhỏ không biết phân biệt, cứ nghĩ ba người cũng như một.  Nay được biết thêm các từ Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng, Đạo Sư và Thiền Sư nữa. Vậy những chức danh này có gì khác nhau? Nếu muốn nói đến các vị sư ở chùa thì nên dùng từ nào cho chính xác?

 

1. Thầy tu có nghĩa là một người sống nghiêm túc theo những giáo lý và luật lệ quy định của một tôn giáo (nào đó) như đạo Phật chẳng hạn. Họ sống và tu hành ở chùa hay trong tu viện hoặc thiền viện, chuyên tâm vào việc học và hành để đạt mục đích giác ngộ giải thoát, ra khỏi sinh tử luân hồi. Còn từ ngữ “thầy chùa” thì đó là tiếng gọi của giới bình dân. Từ ngữ này đã không chính xác lại thiếu tính cách tôn trọng bậc tu hành. Người Phật Tử không nên dùng từ ngữ này. Người chuyên dạy các pháp môn tu luyện tâm gọi là Thiền Sư, còn người chuyên dạy giáo lý Phật gọi là (Phật tử Nam Tông) hay là Thầy (Phật tử Bắc tông).

 

2. Riêng từ “Thầy CúngTự Điển Việt Nam của soạn giả Lê Ngọc Trụ giải thích là “tiếng gọi một cách mỉa mai những thầy chùa chuyên làm đám ăn tiền chứ không thiết gì đến kinh kệ, giáo lý nhà Phật”. Trong Phật giáo không hề có danh từ “Thầy Cúng”, nhưng do trong quá trình du nhập vào một vùng mới, vì tính từ bi, dung hoà, giản dị và nhất là vì “tùy duyên phương tiện độ chúng sinh”, và dù đạo Phật không chủ trương cúng bái, cầu xin; Phật giáo đã dễ dàng chấp nhận những hình thức cúng bái hình tượng và phong tục thờ cúng địa phương, vì thế những loại hình cúng bái do nhu cầu xã hội bắt đầu bén rễ.

 

Từ đó thầy cúng đội lốt hình thức một tín ngưỡng bản địa, hay của một tôn giáo khác, trong đó có Phật giáo. Các thầy cúng này từ xưa đến nay làm ăn khấm khá do nhu cầu của quần chúng, do đầu óc mê tín của người dân và càng ngày càng phát triển gây tác hại cho xã hội và làm mất uy tín cho đạo Phật.  Không riêng gì Việt Nam mà ngay cả các nước khác như Trung Hoa, Hàn Quốc, Hồng Kông hay Singapore cũng có thầy cúng. Trong số thầy cúng ở nước ngoài này có người mặc những trang phục đắt tiền như lụa là gấm vóc, trụ trì chùa to, sở hữu chủ động sản và bất động sản nhiều triệu Mỹ Kim. Không khéo Việt Nam mai sau này cũng có một bộ phận trá hình Phật Giáo chuyên làm thầy cúng tạo nên giới tư bản riêng, có cơ sở, có sức mạnh về tiền bạc và dĩ nhiên biết đâu có quyền lực trong xã hội.

 

Theo báo chí cho biết sự lạm dụng hình thức cũng như các hoạt động của thầy cúng hiện đã lên cao. Việc đi cúng được họ gọi là làm Phật sự hay Pháp sự và họ cho đó là một pháp hành trong muôn pháp của đạo Phật. Họ lợi dụng kinh điển của Phật giáo là “Phật sự siêu độ người chết”. Tuy nhiên họ không biết những việc siêu độ vong linh này không phải của Phật Giáo mà được du nhập từ Trung Quốc. Hòa thượng Tịnh Không, một vị cao tăng nổi tiếng đương thời, trong một buổi thuyết giảng tại Đài Bắc đã nói rõ Phật sự không phải là đi độ đám mà là giúp đỡ dậy dỗ tất cả chúng sinh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Ngài cũng cho biết những việc siêu độ vong linh người chết ở trong Phật giáo xuất hiện rất trễ. Thời xưa (Phật Giáo) ở Ấn Độ không có.  Khi Phật giáo được truyền đến Trung quốc, lúc ban đầu cũng chẳng có.

 

3. Còn các danh từ Đại đức, Thượng tọa và Hòa thượng đều là những từ tôn xưng, do người khác nêu lên để tỏ sự kính trọng đối với một vị tu sĩ Phật giáo, chứ không phải là những từ dùng để tự xưng. Ngày nay, theo hiến chương giáo hội: (1) Đại đức: có tuổi đạo 4 năm và tuổi đời trên 20 tuổi, (2) Thượng tọa: Vị Đại đức có tuổi đạo ít nhất là 25 năm và tuổi đời trên 45 tuổi. (3) Hòa thượng: vị Thượng tọa có tuổi đạo ít nhất là 40 năm và tuổi đời trên 60 tuổi.

 

4. Đối với danh xưng Đạo Sư trong Phật Giáo thường ám chỉ vị trí của đức Phật. Ngài là một vị ‘Đạo sư’ hay là một vị ‘Lương y’. Trách nhiệm của bậc Đạo sư chỉ cho chúng ta con đường nào là con đường đi đến giác ngộ giải thoát và con đường nào là con đường dẫn đến khổ đau. Ngày nay danh từ Đạo Sư bị lạm dụng, có tình trạng nhiều vị tự xưng là đạo sư hay vô thượng sư, tự xưng là người đã chứng ngộ này nọ. Thời Phật còn tại thế, Ngài cấm đệ tử tuyên bố cho công chúng biết những gì mà mình đã chứng ngộ được. Đức Phật muốn đệ tử của Ngài khiêm tốn và chân thành.

 

Nói tóm lại danh từ thầy tu là để chỉ chung những vị tu hành chân chính.  Trong đạo Phật chúng ta có thể gọi những vị này là Thầy hay Sư, nếu là Thầy hay Sư chuyên dạy pháp hành Thiền thì gọi là Thiền Sư.  Không nên gọi là thầy chùa. Nếu như biết rõ phẩm vị của vị Thầy trong tổ chức giáo hội thì nên gọi bằng chính phẩm vị của vị thầy đó, như Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức…Còn danh từ Đạo Sư, thiết tưởng không nên dùng vì cao to quá.  Người viết được biết hiện nay Phật Giáo Việt Nam chưa có ai được tôn là Đạo Sư và Phật Giáo thế giới cũng vậy, kể cả Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 cũng chưa có ai tôn ngài là Đạo Sư và chính ngài cũng không tự nhận mình là Đạo Sư. Ngài khiêm tốn và chân thành chỉ nói ngài là một thầy tu đơn giản.

 

(Trích từ sách Phật Pháp Trong Đời Sống, Nhà xuất bản Hồng Đức 2014)

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/p22a21706/12-thay-tu-thay-chua-hay-thay-cung

 

.... o ....

  

A Monastic, a Temple Priest, or a Ritual Master

 

Author: Tâm Diệu

Translated by Nguyên Giác

 

When I was young and living in a northern village, I didn't know if the temple keeper was vegetarian or non-vegetarian, if he had a wife and children, or if he was single. At that time, I only knew that he was the temple custodian who occasionally visited people's houses to perform rituals, chant sutras, and strike the gong. The children in the village often referred to him as the Temple Priest because they frequently saw him at the temple and observed him taking care of it. They also observed him occasionally performing religious rituals, so some refer to him as the Ritual Master. Many people nowadays, just as others did decades ago, still confuse the three following roles: monastic, temple priest, or ritual master. They don't know how to differentiate between those positions, thinking the three are the same. Now we have a better understanding of the terms Reverend, Venerable, Most Venerable, Buddhist Master, and Zen Master. So, what is the difference between these titles? If you want to talk about the priests at the temple, what word should you use?

 

1. A monastic is an individual who earnestly lives according to the teachings and rules of a specific religion, such as Buddhism. They reside and train in temples, monasteries, or meditation centers, dedicated to learning and practicing in pursuit of enlightenment and liberation, seeking to break free from the cycle of birth and death. The term "temple priest" is the title used by the common people. This term is inaccurate and disrespectful to religious practitioners. Buddhists should refrain from using this word. A person who specializes in teaching methods to cultivate the mind should be called a meditation master, and a person who specializes in teaching Buddhist scriptures should be called a (in Southern Buddhism) or Thầy (in Northern Buddhism).

 

2. The term "Ritual Master" is explained in the book Tự Điển Việt Nam (Vietnamese Dictionary) by author Le Ngoc Tru as "an ironic designation for temple priests who specialize in performing rituals for financial gain, without regard for Buddhist scriptures or teachings." In Buddhism, the term "Ritual Master" does not exist. However, as Buddhism spread to new regions, rituals were conducted to promote compassion, harmony, and simplicity, and to gradually impart the Dharma to others, despite Buddhism's non-advocacy of worship or prayer. Therefore, Buddhism readily embraced local forms of image worship and rituals, which gradually took root to meet social needs.

  

From then on, the ritual master adopted the appearance of indigenous beliefs or other religions, including Buddhism. These ritual masters have thrived since ancient times due to the needs of the masses and people's superstitious beliefs. However, their increasing influence is causing harm to society and tarnishing the reputation of Buddhism. Not only Vietnam, but also other countries such as China, Korea, Hong Kong, and Singapore, have ritual masters. Among these foreign ritual masters, many wear expensive clothing such as silk and brocade, serve as abbots of large temples, and possess millions of dollars in real estate and property. In the future, Vietnam may see a rise in covert Buddhists who specialize in rituals, contributing to the development of a capitalist society and wielding both economic and social influence.

  

Newspapers are reporting an increasing number of abusive activities by ritual masters. Performing worship rituals is considered a Buddhist or Dharma activity and is regarded as one of many Buddhist practices. They exploit the Buddhist scriptures, which state that "Buddhism can help elevate the deceased to a peaceful realm." However, they do not know that these ritual acts of saving are not Buddhist but were imported from China. During a lecture in Taipei, the renowned monk Venerable Tinh Khong emphasized that Buddhism is not solely about worship, but rather about assisting and instructing all sentient beings in overcoming their delusions, achieving enlightenment, and embracing a joyful life free from suffering. He also mentioned that the ritual work to aid the spirits of the deceased in Buddhism emerged very late. In ancient times, Buddhism in India did not have many rituals. When Buddhism was first introduced to China, it was not widely practiced.

  

3. The titles Reverend, Venerable, and Most Venerable are all expressions of respect bestowed upon a Buddhist monastic by others, rather than words used for self-promotion. According to the charter of the Buddhist Sangha of Vietnam, a reverend is defined as a person with a religious age of 4 years and over 20 years old. A venerable is a reverend with a religious age of at least 25 years and over 45 years old, while a most venerable is a venerable with a religious age of at least 40 years and over 60 years old.

 

4. The title "Master of the Path" in Buddhism often refers to the position of Buddha. He is a "Master of the Path" or a "compassionate physician." The responsibility of the Master of the Path is to guide us toward enlightenment and liberation, and to illuminate the courses that lead to suffering. Nowadays, the term "guru" (Master of the Path) is often misused. There are numerous individuals who label themselves as gurus or supreme masters, asserting to be enlightened in various aspects. When Buddha was still alive, he forbade his disciples from announcing to the public what they had realized. The Buddha desired his disciples to be humble and sincere.

  

In short, the term "monastic" generally refers to dedicated practitioners. In Buddhism, these individuals can be referred to as Thầy or Sư, and as meditation masters if they specialize in teaching meditation. You should not refer to them as temple priests. If you are familiar with the hierarchy of monastics in the sangha organization, you should address them by their respective titles, such as Most Venerable, Venerable, or Reverend. It is inappropriate to refer to anyone as a Master of the Path, as this title signifies a very elevated position. Currently, Vietnamese Buddhism does not have anyone respected as a Master of the Path (Guru), and this is also the case for Buddhism worldwide. Even though he is the most respected monk in the world, His Holiness the Dalai Lama is not referred to as the Master of the Path by any Buddhist, and he himself does not claim to be a Master of the Path. He humbly and sincerely said that he was only a simple monk.

 

(Excerpted from the book Live The Buddhist Teachings, Hồng Đức Publishing House, 2014)

 

.... o ....

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong năm nay, có thể nói kỳ Thống Kê Dân Số 2020 (Census 2020) sẽ là một trong những sự kiện kinh tế xã hội quan trọng nhất của Hoa Kỳ. Chính phủ hiện nay đang tập trung nguồn lực để khởi động sự kiện này trong tháng tới, và kêu gọi người dân thuộc mọi cộng đồng sắc tộc tại Hoa Kỳ tích cực tham gia, với khẩu hiệu: “Định Hình Tương Lai Của Quý Vị Bắt Đầu Tại Đây”, trong đó có cộng đồng gốc Việt.
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên www.Facebook.com/rmiodp vào mỗi tối thứ Tư , từ 7:00-8:00 giờ, hoặc sáng thứ Năm lúc 10:00 sáng, giờ Việt Nam.
Nhiều khách hàng thích có bộ lông mi đậm dài và cong vút suốt cả cuộc đời. Người ta không nhớ là, cứ mỗi 60 ngày, sợi lông mi cũ sẽ rụng và mọc ra sợi lông mới. Chẳng có cách gì làm cho ta có thể giữ vĩnh viễn một bộ lông mi dài và dầy.
Chị ơi, mắt của em chỉ có một mí. Vì muốn có hai mí để trang điểm dễ dàng hơn nên em thường xuyên dán miếng kích mí mắt để tạo mí. Em dùng thử mới có một tháng mà cảm thấy mí mắt rất nặng nề. Có phải đó là tác dụng phụ hay không???
Xin lưu ý: The Department of Consumer Affairs (DCA) đã biết về một kế hoạch lừa gạt nhằm vào những người được cấp bằng hành nghề Thẩm Mỹ của các tiểu bang và có liên quan tới văn phòng DCA.
Đôi mắt của người Á Đông nói chung là mắt một mí, mí lót, hay mí rất nhỏ, và có bọng mắt hơi sưng ở mí mắt dưới, vì vậy nét trang điểm cho đôi mắt cũng phải tùy thuộc vào hình dáng của đôi mắt.
Mọi người ở Hoa Kỳ dùng lá bài chủng tộc hay dân tộc một lúc nào đó, hay ít nhất mỗi người đáp ứng thống kê dân số. Mặc dù cái nhìn khoa học xem chủng tộc như một xây dựng xã hội nhân tạo, tách rời khỏi thực tế sinh học, có ô nào trong mẫu khai xác định về bạn?
Thế giới tuần qua có 3 sự kiện làm nhiều người chú ý: Tổng Thống Phi Luật Tân Duterte dọa chấm dứt hiệp ước an ninh với Mỹ, Tổng Thống Donald Trump được Thượng Viện tha tội, và bệnh viêm phổi cấp tính do vi khuẩn corona từ thành phố Vũ Hán của Hoa Lục tiếp tục lan nhanh.
Một công ty sinh học Mỹ cho biết ho đã tạo ra thuốc chủng ngừa vi khuẩn corona trong 3 giờ đồng hồ sau khi có được kết quả gene của vi khuẩn hôm 9 tháng 1, và hiện nay các nhà khoa học đang chạy đua với thời gian để có thuốc chủng ngừa cho thị trường trong thời gian kỷ lục.
Việt Nam đã cách ly một cộng đồng 10,000 người dân gần Hà Nội, trong vòng 20 ngày bởi vì lo sợ vi khuẩn corona có thể lây lan, theo 2 viên chức địa phương nói với Reuters hôm Thứ Năm, ngày 13 tháng 2 năm 2020.
Đàn ông và Đàn bà là cả hai thế giới khác biệt nhau. Họ khác nhau về thể chất, về tinh thần, về cách suy nghĩ, cũng như về cách hành sự trong cuộc sống. Bởi những nguyên nhân này mà thường xảy ra biết bao nhiêu là chuyện hục hặc, hiểu lầm lẫn nhau, cơm không lành canh không ngọt, khắc khẩu, ảnh hưởng không nhỏ đến hạnh phúc gia đình…
Ở thời điểm 30/4/1975 chỉ có trên 1,000 người Việt tại Úc, gồm những phụ nữ lập gia đình với Úc, sinh viên du học ở lại Úc, sinh viên đang du học, viên chức đang làm việc hay tu nghiệp, tu sĩ công giáo tu học và trẻ mồ côi sang Úc vào tháng 4/1975.
Năm nay 2020, tiểu bang California, Hoa Kỳ tưng bừng mở hội xuân nhờ Tết Nguyên Đán rơi vào hai ngày cuối tuần không mưa và ít lạnh. Ngày mồng một, người Việt ai cũng hớn hở ra đường, không xem diễn hành thì đi chợ Tết, lễ chùa hoặc họp mặt, gặp gỡ gia đình, người thân.
Tôi nghe nhà báo Du Uyên kể chuyện pháo từ hôm trong Tết mà mãi tới bữa nay vẫn còn hơi bị ù tai: “Nguyễn Đức Khánh, 31tuổi, quê ở Nghệ An, làm việc tại một công ty kính cường lực ở Saigon hơn 10 năm nay. Vài năm nay, kinh tế vợ chồng anh ổn định hơn, nhất là khi mua được căn chung cư trả góp 15 năm. Để gia đình tự hào, anh hay... ‘chém gió’ vui vui mình lương cao, vài ba lần lỡ lời mình là giám đốc kinh doanh của công ty.
Ngày 12/2/2020 Nghị viện châu Âu chính thức thông qua Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam, với đa số ủng hộ là 401 phiếu, 192 phiếu chống, và 40 phiếu trắng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.