Hôm nay,  

Song ngữ: Did the Buddha preach the Dharma, or did he not preach the Dharma? / Đức Phật có thuyết pháp hay không thuyết pháp

22/12/202317:31:00(Xem: 7078)
blank

Đức Phật có thuyết pháp hay không thuyết pháp

 

Tâm Diệu

 

Trong các thuật ngữ của đạo Phật, có lẽ không có từ ngữ nào mà người học Phật cần phải hiểu và cần phải phân biệt rõ ràng, nếu như muốn hiểu giáo lý thâm diệu của đạo Phật như hai thuật ngữ "Chân Đế" và "Tục Đế".

 

Thật vậy, Đức Phật, vì muốn độ chúng sinh thoát khỏi sinh tử luân hồi nên mới nương vào thế giới Tục đế mà nói pháp, nhằm chỉ bày cho chúng sinh thấy được cái bản chất chân thật tự nhiên của Tâm vốn sẵn có, để chúng sinh, tự nỗ lực tu hành giải thoát khỏi khổ đau sinh tử, lìa khỏi thế giới Tục đế, đến thế giới Chân đế.

 

Cũng vì thế mà Ngài Long Thọ Bồ tát nói rằng: "... Các Đức Phật vì chúng sinh, y vào Nhị đế mà nói pháp, thứ nhất là Thế tục đế và thứ hai là Đệ nhất nghĩa đế. Nếu người nào không nhận thức được hai chân lý này, thì đối với Phật pháp sâu xa, không thể hiểu được chân nghĩa. Nếu không nương tựa vào tục đế, thì không thể thấy được chân lý; nếu không thấy được chân lý, thì không thể ngộ được Niết bàn..." [1]

 

Tục đế là một hợp từ: "tục" nghĩa là thế tục, thế gian hay phàm tục, "đế" nghĩa là chân lý. Tục đế có nghĩa là những cái gì mà người thế tục đồng ý với nhau, gọi là chân lý quy ước hay còn gọi là chân lý tương đối, hoặc còn gọi là chân lý thế tục hoặc thực tại tương đối. Nó là tất cả những hiện tượng do duyên khởi tức là pháp sinh diệt trong thế gian nầy.

 

Còn Chân đế, cũng là một hợp từ, có nghĩa là chân lý chân thật không hư vọng, là chân lý tuyệt đối, là chân lý tối thượng, cũng còn gọi là Đệ nhất nghĩa đế, là chân tâm, là giác tánh, là chân như...

 

Chân lý tuyệt đối là gì? Không ai biết được ngoại trừ chính chư Phật và chư Tổ đã giác ngộ. Các Ngài cũng không thể nói cho chúng ta biết được. Toàn bộ giáo điển của chư Phật là pháp phương tiện, Ngài "dùng pháp thế gian, (tức thế tục đế) để giảng nói cho chúng sinh" [2], cốt để chúng sinh ngộ được cái chân lý tuyệt đối như Ngài vì Ngài thấy Tâm Phật và Tâm chúng sinh vốn không khác, vốn tự đầy đủ mênh mông khắp không gian và thời gian.

 

Thật vậy, xuyên qua lời dạy của Phật và chư Tổ, sở dĩ có sự sai khác là vì tâm chúng sinh bị mê mờ ô nhiễm. Cái Tâm bị bao vây bởi tham sân si, bởi vọng tưởng điên đảo, bởi tham nhiễm các pháp có không. Ngài Sogyal Rinpoche, một đại sư Tây tạng, ví Tâm chúng ta bị vây kín trong một cái bình mà "khoảng không trong bình cũng giống như khoảng không bên ngoài. Khi chúng ta giác ngộ, thì cũng như cái bình vỡ tan thành mảnh vụn... Ngay lúc đó và tại chỗ đó, chúng ta trực nhận được rằng chúng chưa từng bao giờ có sự ngăn cách hay sai khác..." [3]

 

Vì tâm sinh diệt của chúng sinh luôn luôn dính mắc vào các pháp "có không" nơi thế giới hiện tượng tức thế giới tục đế, nên Đức Phật thấy thật là khó nói về cái mà Ngài đã chứng ngộ, chẳng hạn như nói về Phật tánh, chân tâm, vốn không hình tướng, không số lượng. Nếu nói chúng sinh có Phật tánh là chấp trước, nói không có Phật tánh là hư vọng, nói Phật tánh cũng có cũng không là nói trái ngược nhau, nói Phật tánh chẳng có chẳng không là hý luận. Nên Phật mới dùng các pháp thế gian phương tiện, "giả lập kệ pháp, giả lập danh tự, vốn chẳng phải Phật, nói với họ là Phật, vốn chẳng phải Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, nói với họ là Bồ Đề, Niết Bàn, giải thoát, ... Biết họ gánh trăm tạ chẳng nổi, tạm cho họ gánh một lon, một chén, biết họ khó tin giáo liễu nghĩa, tạm nói với họ giáo bất liễu nghĩa, tạm được pháp lành lưu hành còn hơn là pháp ác..." [4].

 

Cũng chính vì chân lý tuyệt đối này rất khó hiểu, khó nhận, khó nói nên đôi khi Ngài phải dùng những thí dụ bằng lời nói, như trong Kinh Pháp Hoa, Phật dùng bảy thí dụ, trong đó có hai thí dụ là cái nhà lửa và câu chuyện đứa con cùng tử mà ai cũng biết. Ngoài ra còn nhiều kinh khác như Bách Dụ Kinh, Tạp Thí Dụ Kinh, Bồ Tát Bổn Sanh Kinh, ... Các thí dụ Ngài nói trong kinh thường dùng phương thức ngụ ngôn, hàm chứa những ý nghĩa thâm thúy, ám thị lý tuyệt đối mà chân lý tuyệt đối này không thể dùng lời trực tiếp mà giảng giải vì lời chỉ là khí cụ diễn đạt cái tư tưởng tương đối, cái có hình, có tướng trong thế giới nhị nguyên.

 

Chư Tổ chứng ngộ cũng vậy, không thể nói cho chúng ta biết được chân lý tuyệt đối là gì, mà quý Ngài chỉ dùng những câu chuyện ngụ ngôn, như câu chuyện con rùa và con cá để làm thí dụ mà thôi. Rằng con rùa từ dưới nước bò lên mặt đất, đi một vòng rồi trở về nước, bơi cạnh con cá, kể chuyện đất liền cho nó nghe. Nhưng con cá, vì chưa bao giờ rời khỏi nước, không thể tưởng tượng nổi lại có một môi trường có thể sống được mà không có nước, không bơi lội. Cho nên con rùa đành chịu mang tiếng là nói chuyện viển vông hoang đường, không có trong thực tế. [5]

 

Cảnh giới tuyệt đối, chân tâm, giác tánh, chân như, mà Phật đã giác ngộ không thể nói cho người chưa chứng ngộ biết được. Vì lẽ đó mà người đời đôi khi cũng phê bình: "Đạo Phật cao siêu quá, không có trong thực tế". Nhưng chính đó mới là cốt tủy của Phật Giáo.

 

Kinh Kim Cang là kinh liễu nghĩa, nói về cốt tủy của đạo Phật, về chân lý tuyệt đối, cho nên không có pháp gì để nói. Những lời Phật dạy trong kinh chỉ giúp chúng sinh phá bỏ những hiểu biết tương đối, phá bỏ những kiến chấp sai lầm cố hữu, những vướng mắc lâu đời vốn là nhân kiên cố của vòng xích luân hồi, đã lôi kéo chúng sinh vào vòng trầm luân muôn vạn kiếp. Ngài phá bỏ không còn một kiến chấp nào và Ngài cũng tuyên bố luôn là Ngài không thuyết pháp:

 

"- Tu Bồ Đề! Ông chớ cho Như Lai có nghĩ rằng: "Ta có nói pháp". Ông chớ nghĩ như vậy. Bởi vì sao?

- Vì nếu người nào nói rằng: Như Lai có nói pháp, tức là chê Phật, không hiểu được lời của ta nói.

- Tu Bồ Đề! Nói pháp, là không có pháp gì nói được, ấy gọi là nói pháp." (6)

 

Có nghĩa là Phật không nói về cái chân lý tuyệt đối, về cái chân tâm, Phật tánh, Chân Như, vì chân lý tuyệt đối vốn chẳng thể dùng ngôn ngữ tương đối thế tục để biểu thị. Ngài chỉ dùng ngôn ngữ thế gian tức chân lý thế tục để chỉ bảo chúng sinh, mà ngôn ngữ thế tục, là pháp tương đối thì không có tự tánh, chỉ do nhân duyên hòa hợp, và do nhân duyên hòa hợp nên không có thật.

 

Đức Phật khi giảng pháp, Ngài luôn luôn nói sự thật. Có khi Ngài nói về sự thật tương đối và có khi Ngài nói về sự thật tuyệt đốị Nếu không hiểu điều đó, chúng ta thấy nhiều điều Ngài nói trái ngược nhau và sẽ làm cho chúng ta bối rối, hiểu mập mờ, hỗn độn (confuse). Thí dụ như trong kinh Đại Bát Niết Bàn đức Phật nói:

 

Chư hành vô thường,

Thị sinh diệt pháp.

Sinh diệt diệt dĩ,

Tịch diệt vi lạc.

 

Tạm dịch là:

 

Các hành vô thường

Là pháp sinh diệt

Sinh diệt hết rồi

Tịch diệt là vui.

 

Hai câu đầu có nghĩa là tất cả các pháp trong thế giới hiện tượng đều vô thường, chúng đều là những pháp sinh diệt. Hai câu sau có nghĩa là khi sinh và diệt không còn sinh diệt nữa thì còn là niềm an lạc. Trong thế giới này, tức thế giới tương đối có sinh và có diệt, còn thế giới kia tức thế giới tuyệt đối thì không sinh không diệt. Nếu chúng ta không hiểu rõ tục đế và chân đế thì cho rằng đức Phật nói trái ngược nhau. Sự thật Ngài luôn luôn nói đúng sự thật. Hai câu đầu là tục đế tức thuộc thế giới hiện tượng tương đối, có sanh và có tử. Hai câu sau thuộc lãnh vực tuyệt đối tức chân đế, không có sinh và không có diệt, là thế giới của pháp tánh hay thế giới của bản thể.

 

Đến đây, chúng ta trở lại bài kệ của Bồ Tát Long Thọ đã nêu trên phần mở đầu. Bồ Tát dạy chúng ta rằng nếu chúng ta không phân biệt được chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối, tức thế tục đế và chân đế, thì chúng ta không thể hiểu được đạo Phật. Do sự không hiểu và không phân biệt rõ này, chúng ta lại nhập nhằng đem lời Đức Phật nói "Không thể nói pháp Tuyệt Đối", mà cho là Đức Phật nói "Không nói pháp Tương Đối" là chúng ta vô tình vướng mắc vào sự hủy báng kinh, chứa đựng những lời tâm huyết của Đức Phật. Ngài đã dùng ngôn ngữ và chân lý thế tục để dạy người thế tục biết cách mà tiến dần trên con đường từ bỏ thế tục, trở về bản thể tuyệt đối. Nếu chúng ta không hiểu được điều đó, mà tưởng rằng Đức Phật không nói pháp, thì chúng ta sẽ mất niềm tin nơi kinh, sẽ mất cơ hội có bản đồ chính xác để tìm đường trở lại bản thể chân tâm tuyệt đối.

 

 ----

 

Ghi Chú

 

 

 

(1).Thích Tâm Thiện, Lịch Sử Tư Tưởng và Triết Học Tánh Không, Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 1999.

 

(2). Kinh Đại Bát Nhã, Cuốn 2, Trang 275

 

(3). Sogyal Rinpoche -Thích Nữ Trí Hải dịch, Tinh Chất Cam Lồ, , TP HCM Việt Nam 1969

 

(4). Bá Trượng Ngữ Lục, Thích Duy Lực, Từ ân Thiền Đường xuất bản, 1999 trang 29-30

 

(5). Narada Maha Thera, Đức Phật và Phật Pháp, Phạm Kim Khánh Việt dịch, Đại Nam xuất bản 1987, trang 458-459

 

(6). Thích Huệ Hưng dịch, Kinh Kim Cang Giảng Lục, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản 1983, trang 82.

 

 

(Trích từ sách Phật Pháp Trong Đời Sống, Nhà xuất bản Hồng Đức 2014)

 

Nguồn:

https://thuvienhoasen.org/p22a21709/15-duc-phat-co-thuyet-phap-hay-khong-thuyet-phap

 

.... o ....

 

Did the Buddha preach the Dharma, or did he not preach the Dharma?

 

Author: Tâm Diệu

Translated by Nguyên Giác

 

 To comprehend the profound teachings of Buddhism, students of Buddhism must understand and clearly distinguish between the two terms "Ultimate Truth" and "Conventional Truth."

  

The Buddha relied on worldly truth to speak Dharma in order to save sentient beings from the cycle of birth and death. His aim was to reveal the true nature of the existing mind to sentient beings, so that they could make their own efforts to practice and liberate themselves from the suffering of birth and death. This would enable them to leave the world of conventional truths and reach the world of ultimate truth.

 

That's why Nagarjuna Bodhisattva said, "For the sake of sentient beings, the Buddhas speak the Dharma based on the Two Truths: the first is the conventional truth, and the second is the ultimate truth. Anyone who is unaware of these two truths cannot understand the profound meaning of the Dharma. If one does not rely on conventional truths, one cannot see the truth; if one cannot see the truth, one cannot realize Nirvana."

 

The conventional truth, also known as secular truth, is a compound word: "secular" refers to worldly, and "truth" denotes truth. Conventional truth refers to the consensus among secular individuals, also known as relative truth or secular reality. All phenomena arise due to conditions, known as dharmas, and they arise and pass away in this world.

 

As for the ultimate truth, it is a compound word signifying genuine truth, not falsehood. It represents the absolute truth, the supreme truth, the truth of highest significance, the true mind, the nature of awareness, or suchness.

 

What is the absolute truth? No one knows, except the enlightened Buddhas and Patriarchs. They also cannot inform us. The entire teachings of the Buddhas are expedient methods. The Buddha utilized worldly dharma, the conventional truth, to teach living beings so that they could comprehend the absolute truth, just as he did, perceiving no distinction between the mind of Buddha and the mind of any worldly being. The same mind is inherently self-sufficient and vast across space and time.

 

Indeed, the teachings of the Buddha and the Patriarchs are often misinterpreted due to the confusion and pollution of the reader's mind. When the mind is consumed by greed, anger, and ignorance, as well as contradictory delusions, and by clinging to attachments of existence or non-existence, that is the moment of turmoil. Sogyal Rinpoche, a renowned Tibetan master, compares our mind to being enclosed in a vase, stating that "the space inside the vase is the same as the space outside. When the practitioner achieves enlightenment, it is akin to seeing a vase shattered into pieces. Right then and there, the practitioner directly perceives that space has never had any separation or difference."

 

Because the minds of sentient beings are constantly arising and passing away, always attached to the existence or non-existence of the phenomenal world (i.e., the worldly truth), the Buddha found it difficult to articulate the Dharma that he realized, such as Buddha nature or the true mind, which has no form or quantity. If we assert that sentient beings possess Buddha nature, we embrace the mistaken concept of existence. If we deny the existence of Buddha nature, we are holding onto an illusion. If we assert that Buddha nature both exists and does not exist, it leads to a contradiction. If we assert that Buddha nature is neither existent nor nonexistent, it becomes nonsensical. That's why Buddha used the concept of worldly dharma, which refers to half-truths in verses, names, and words. Where there was no Buddha, he still claimed that there was a Buddha. Similarly, even in the absence of Bodhi, Nirvana, or liberation, the Buddha still informed the audience that it was Bodhi, Nirvana, or liberation. Understanding that the listeners were unable to carry a load of hundreds of kilograms, the Buddha temporarily allowed them to carry either one vase or one cup. The Buddha understood that his listeners struggled to believe in teachings with ultimate meanings. Therefore, he temporarily shared teachings that did not have ultimate meanings, allowing beneficial worldly teachings to circulate temporarily, rather than allowing harmful beliefs to arise.

 

Because this absolute truth is very difficult to understand, live with, and interpret, the Buddha sometimes had to use similes. As in the Lotus Sutra, Buddha used seven examples, two of which are well-known: the house on fire and the story of the wandering son. There are also numerous other sutras, including the Sutra of One Hundred Similes (Bách Dụ Kinh), the Sutra of Multiple Similes (Tạp Thí Dụ Kinh), the Jataka Tales (Bồ Tát Bổn Sanh Kinh), and more. In numerous sutras, the Buddha employed metaphors with profound meanings to illustrate the absolute truth, which cannot be directly conveyed in words because words can only express worldly ideas that have shape and form in the realm of duality.

 

Similarly, the Enlightened Patriarchs are unable to provide us with the absolute truth; instead, they rely on parables, such as the story of the turtle and the fish, to illustrate their points. The turtle emerged from the water, moved around on land, and then returned to the water. It swam alongside the fish and shared stories about the land. The fish, having never left the water, cannot imagine an environment where it can survive without water and without swimming. Consequently, the turtle had to bear the reputation of speaking about wild nonsense that had no basis in reality.

 

The absolute realm to which the Buddha was enlightened—such as the true mind, nature of awareness, and suchness—cannot be explained to ignorant people. For that reason, people sometimes criticize Buddhism as being too sublime, too abstract, and disconnected from reality. But that is the essence of Buddhism.

 

The Diamond Sutra is one of the most profound sutras, delving into the essence of Buddhism and the absolute truth, asserting that there is truly no dharma to speak of. The Buddha's teachings in this sutra assist sentient beings in overcoming their relative understandings, inherent wrong views, and long-standing entanglements that are significant causes of the cycle of reincarnation. These factors have led sentient beings into an almost eternal cycle of birth and death.

 

The Buddha rejected all attachment to views and stated that he never claimed to preach the Dharma. The Diamond Sutra states: "Subhuti! Do not let the Tathagata think that the Buddha taught the Dharma. Please do not think like that. Why? If anyone claims that the Tathagata spoke the Dharma, it implies that this person is criticizing the Buddha and does not understand my teachings. Subhuti! To speak the Dharma is to say that there is no Dharma to say; that is called speaking the Dharma."

 

Buddha does not discuss the absolute truth, the true mind, Buddha nature, or True Suchness, as these concepts cannot be expressed in the relative language of the world. He only employs mundane language, or the secular truth, to guide sentient beings. However, mundane language, which is conditioned dharma, is inherently empty. It appears through the combination of causes and conditions and therefore cannot indicate the unconditioned truth.

 

When preaching the Dharma, the Buddha always spoke the truth. Sometimes the Buddha discussed conventional truth, and at other times, he discussed absolute truth. If we fail to comprehend this, we may perceive many of the Buddha's teachings as contradictory, leading to misunderstanding or confusion.

 

For example, in the Mahaparinirvana Sutra, the Buddha said,

 

"All formations are impermanent;

they are the phenomena of birth and death.

When birth and death come to an end,

cessation is bliss."

 

The first two lines indicate that all phenomena in the secular world are impermanent; they are all subject to birth and death. The last two lines imply that once birth and death cease to exist, what will remain is blissful peace. This world is a realm of relative birth and death. As for the world on the other shore, the absolute world, there will be no birth and no death. If we do not have a clear understanding of the conventional truth and the ultimate truth, we may mistakenly believe that the Buddha made contradictory statements. In fact, Buddha always spoke the truth. The first two lines express the conventional truth, which pertains to the realm of relative phenomena, where birth and death occur. The last two lines pertain to the absolute realm, which represents the ultimate truth. In this realm, there is no birth or death; it is the world of dharma nature, or the world of inherent essence.

 

At this point, we return to the verse of Bodhisattva Nagarjuna mentioned in the opening of this article. Bodhisattva teaches us that if we cannot distinguish between relative truth and absolute truth, that is, worldly truth and ultimate truth, then we cannot fully comprehend Buddhism. Due to this lack of understanding and lack of distinction, we ambiguously interpret the Buddha's words to mean that the Absolute Dharma cannot be conveyed, and mistakenly believe that the Buddha did not speak about the Relative Dharma. This unintentionally leads to slandering the sutras, which contain the essential words of the Buddha. He employed everyday language and conventional truths to instruct ordinary people on how to gradually advance on the path of renouncing the phenomenal world in order to reconnect with their essential nature. If we fail to comprehend this and believe that the Buddha did not teach the Dharma, we may lose faith in the sutras and miss the chance to possess an accurate guide to rediscover the true nature of the absolute mind.

 

(Excerpted from the book Live The Buddhist Teachings, Hồng Đức Publishing House, 2014)

 

.... o ....




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một cựu quan chức chiến dịch tranh cử của cựu Tổng thống Donald Trump đã có một thỏa thuận hợp tác hơn với cuộc điều tra của Công tố đặc biệt Jack Smith về những nỗ lực của Trump nhằm lật ngược cuộc bầu cử 2020, theo hai nguồn tin nói chuyện với CNN hôm thứ Năm.
Khi nói về chính trị, Hoa Kỳ đang ngày càng phân cực. Nhưng khi nói về sống lâu và khỏe mạnh, thì đó là điều mà ai ai cũng muốn. Ở Hoa Kỳ, ngày càng có nhiều người chuyển nơi sinh sống từ các bang xanh (blue state: nghiêng về Đảng Dân Chủ) sang các bang đỏ (red state: nghiêng về Đảng Cộng Hòa). Sự thay đổi này có nhiều tác động, và một trong số đó là họ đang chuyển đến những nơi có tuổi thọ trung bình thấp hơn.
Bảng xếp hạng các chỉ số về điều kiện sống mới nhất của EIU cho thấy, điều kiện sống ở các thành phố trên khắp thế giới đã phục hồi hoàn toàn sau khoảng thời gian chật vật do đại dịch COVID-19 gây ra. Dữ liệu của EIU đánh giá điều kiện sống ở 173 thành phố theo 5 mục: sự ổn định, chăm sóc sức khỏe, văn hóa và môi trường, giáo dục và cơ sở hạ tầng. Các thành phố ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương phục hồi mạnh mẽ nhất. Chỉ số cũng cho thấy cuộc sống ở các thành phố đã phần nào tốt hơn so với bất kỳ thời điểm nào trong 15 năm qua
Từ đầu năm 2023, hành khách của các hãng hàng không Hoa Kỳ phải đối mặt với tỷ lệ trễ máy bay cao nhất kể từ năm 2014. Tình hình bay trễ nghiêm trọng xảy ra ngay sau tháng 12 năm 2022, khi Southwest Airlines trải qua một cuộc khủng hoảng kinh hoàng, hủy 71% số chuyến bay. Đáp lại, vào ngày 8 tháng 5 năm 2023, chính quyền Biden đã đề xuất các quy định mới, yêu cầu các hãng hàng không phải bồi thường cho những hành khách có chuyến bay bị hủy hoặc bị hoãn đáng kể vì các nguyên nhân không phải loại bất khả kháng (chẳng hạn như thời tiết xấu). Theo quy định mới, các hãng hàng không sẽ phải cung cấp chi phí ăn uống, chỗ ngủ nghỉ và cả phương tiện đưa đón hành khách.
NANTERRE – Các thành phố lớn của Pháp đã trải qua đêm bạo loạn thứ ba kể từ sau vụ cảnh sát bắn chết một thiếu niên gốc Algeria và Moroccan; Tổng thống Emmanuel Macron đã đấu tranh để ngăn chặn tình trạng bất ổn gia tăng, theo tin Reuters.
Như đã được dự đoán từ nhiều tháng qua, hôm nay, tòa tối cao pháp viện đã phán quyết loại bỏ việc sử dụng chủng tộc như một yếu tố trong quá trình tuyển sinh đại học, phá bỏ tiền lệ hàng thập kỷ trong đời sống người Mỹ và giáng một đòn quyết tử vào cuộc tranh đấu dành sự đa dạng cho sinh viên trong các trường đại học. Các thẩm phán bảo thủ kết luận rằng các chính sách tuyển sinh tại Đại học Harvard và Đại học Bắc Carolina đã vi phạm điều khoản bảo vệ bình đẳng của hiến pháp Hoa Kỳ. Phán quyết này nghiêm cấm việc sử dụng chính sách Đặc Quyền Hỗ Trợ Thiểu Số (Affirmative Action) ở Hoa Kỳ, từng đóng vai trò quan trọng hằng thập kỷ nhằm mục đích tăng số lượng sinh viên Da đen, gốc Tây Ban Nha và các nhóm thiểu số khác tại các trường cao đẳng và đại học của Hoa Kỳ, từng giúp ích cho rất nhiều sinh viên Việt Nam vào những năm cộng đồng người Việt chân ướt chân ráo đến Hoa Kỳ.
The six marvelous Dharma gates, known in Chinese [and Vietnamese] as "Lục diệu pháp môn," refer to the six methods of meditation practice that assist us in entering the doorway of calm abiding and wisdom to go on the path to liberation or Nirvana…./…. Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
Du lịch trong kỳ nghỉ lễ 4 tháng 7 đang tới dự kiến sẽ đạt kỷ lục trong khi nhu cầu cao và các vấn đề khác có thể làm gián đoạn du lịch hàng không. Câu lạc bộ du lịch AAA cho biết họ dự kiến có hơn 50 triệu người ở Hoa Kỳ đi du lịch tầm xa hơn 50 dặm trong kỳ nghỉ sắp tới, rơi vào ngày thứ Ba 4/7 năm nay. Điều đó sẽ là kỷ lục
PARIS – Ở khu vực ngoại ô Nanterre của Paris hôm Thứ Tư, người biểu tình bắn pháo hoa vào cảnh sát và đốt cháy xe cộ; đây là đêm bất ổn thứ hai sau vụ cảnh sát bắn chết một cậu thiếu niên 17 tuổi được cho là đã phạm lỗi khi tham gia giao thông, theo tin Reuters.
OTTAWA – Lực Lượng Biên Phòng Hoa Kỳ (U.S. Coast Guard) cho biết, các mảnh vỡ từ chiếc tàu lặn bị nổ tung khi đang trên đường thám hiểm mộ phần Titanic, cùng với những phần xác được cho là của các nạn nhân, đã được đưa vào bờ để khám nghiệm, theo tin Reuters.
Tuổi Trẻ & Thanh Niên sa đọa tới cỡ đó lận sao? Cái được mệnh danh là những “nhà báo cách mạng”, hiện nay, chả lẽ chỉ rặt là một phường vô lại?
Làng báo CSVN được lệnh phải tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng, ưu tiên Chủ nghĩa Mác-Lênin-Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối lãnh đạo của Đảng. Nội dung này đã được Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đưa ra tại Hội nghị kỷ niệm 98 năm ngày được gọi lả “Báo chi cách mạng Việt Nam” (21/06/1925-21/6/2023)...
Dấu hiệu kinh tế tăng tốc: xin mua nhà tăng. Các đơn xin đăng bộ mua nhà tại Hoa Kỳ đã tăng 3% theo báo cáo hôm thứ Tư từ Khảo sát Weekly Mortgage Applications Survey của Hiệp hội Ngân hàng Mortgage Bankers Association (MBA) cho tuần kết thúc vào ngày 23/6. Trong tuần trước, các đơn nộp đã tăng 0,5%.
WASHINGTON – Tối Cao Pháp Viện (TCPV) Hoa Kỳ đã đưa ra một số phán quyết quan trọng trong nhiệm kỳ hiện tại, bắt đầu từ tháng 10 năm ngoái, và dự kiến sẽ giải quyết những vụ còn lại vào cuối tháng 6, bao gồm các tranh chấp liên quan đến các hoạt động tuyển sinh đại học có tính phân biệt chủng tộc, kế hoạch xóa nợ sinh viên của Tổng thống Joe Biden và quyền LGBT.
Có một bức ảnh kỳ dị tại đại hội thượng đỉnh lần này, vì tuy là quốc gia nhà tổ chức G7 về chủ đề nữ quyền, đại diện được cử đến của Nhật Bản lại là một đấng mày râu, Masanobu Ogura—ông cũng là người đàn ông duy nhất trong cuộc họp này, chụp ảnh chung với 6 phụ nữ từ 6 quốc gia khác.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.