Hôm nay,  

Học theo Đức Phật: Nghĩ về Hạnh Đầu Đà

20/05/202405:13:00(Xem: 4924)
blank
 

Học theo Đức Phật: Nghĩ về Hạnh Đầu Đà
 

Nguyên Giác
 

Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúc và suy tưởng. Những bước chân đơn độc của Thầy đã đi bốn vòng đất nước trong nhiều năm qua, để tu hạnh đầu đà là điều khó làm, không phải ai làm cũng được. Một hình ảnh chưa từng nhìn thấy, dù là trong tiểu thuyết hay phim ảnh: hàng trăm người dân, có khi hàng ngàn người dân, cùng ra phố bước theo Thầy, lòng vui như mở hội, niềm tin vào Chánh pháp kiên cố thêm.
 

Trước đó, Thầy đã vào một ngôi chùa trong hai năm, rồi thấy không phù hợp, nên chọn pháp tu bước đi không ngừng này. Thầy nói rằng Thầy không phải nhà sư, mà chỉ là một người học theo lời Đức Phật dạy. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam xác nhận rằng Thầy Minh Tuệ không phải là thành viên. Thầy đã trở thành đề tài cho nhiều bài viết, tranh vẽ, khắc tượng, thư pháp, thời trang. Bài viết này sẽ thử nhìn vào các vấn đề liên hệ nhưng chưa được thảo luận.
 

Trước tiên, xin nói rằng, người viết rất mực ngưỡng mộ những việc khó làm của Thầy Minh Tuệ. Trước giờ chúng ta chỉ đọc qua trang sử về những vị như thế, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy qua ống kính YouTube trực tuyến như hôm nay. Phải có sức khỏe, phải kham nhẫn, phải kiên tâm. Tôi không có thần thông để có thể đánh giá bất kỳ vị nào đã tu tới đâu, đã tu tới mức nào. Nơi đây chỉ bày tỏ lòng khâm phục về những chuyện khó làm của Thầy: những bước chân của Thầy là tiếng trống của Pháp, là lời thúc giục tinh tấn.
 

Tôi có một vị sư thúc từng tu hạnh đầu đà, nhưng tôi chưa từng gặp ngài: Thiền Sư Như Cự Thích Viên Chiếu là một người đã từng tu hạnh đầu đà, và đã viên tịch năm 1943 trên một ngọn núi ở Ninh Hòa, Khánh Hòa. Tiểu sử của ngài Viên Chiếu có ghi nơi các trang 37-39 trong sách “Thiền Sư Nhẫn Tế: 80 Năm Kỷ Niệm Tây du Phật quốc.” (1)
 

Ngài Thích Viên Chiếu (1892 -1943) từ Huế đi vào Nam tìm minh sư, trước khi gặp Thiền Sư Minh Tịnh Nhẫn Tế tại nơi bây giờ là Chùa Tây Tạng Bình Dương, đã phát nguyện: “Tôi tiếp tục xa xứ tìm thầy để học đạo. Tôi sẽ đi bất cứ đâu kể cả Campuchia, Thái Lan… Khi nào tìm được thầy mới thôi. Nếu không tìm thấy thầy giỏi tôi sẽ tu non, tu ẩn theo hạnh Đầu Đà.”
 

Thời đó, không có xe như bây giờ. Sách ghi rằng: “Từ kinh thành Huế, ngài băng rừng vượt suối vào đến tận Sài Gòn mong tìm được minh sư. Lội bộ không giày, không dép với túi muối ớt sả khoảng gần vài ký, đi tới đâu khất thực tới đó (ngài chỉ dùng cơm với muối ớt sả), đêm Ngài ngủ nơi gốc cây tại các chùa. Cùng đi có sư đệ Như Thượng quê ở An Xuân, Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế. Vào tới Sài Gòn, sư đệ Như Thượng ở lại Sài Gòn. Còn Ngài lại đi sang Campuchia, qua Thái Lan. Ngài vẫn không tìm được thầy theo ý nguyện mình, Ngài quay lại Sài Gòn năm 1937, với ý định cùng với sư đệ có dịp sẽ qua Tây Tạng học đạo.

Duyên may cùng thời gian ấy, Hòa thượng Lạt ma Chơn Phổ - Nhẫn Tế du học Tây Tạng vừa trở về trú trì chùa Thiên Chơn, thuộc ấp I An Thạnh (Búng) thuộc huyện Thuận An, Bình Dương ngày nay. Ngài Như Cự cùng với huynh đệ Như Thượng đến đảnh lễ Hòa thượng Chơn Phổ - Nhẫn Tế cầu pháp . Được Hòa thượng Chơn Phổ Nhẫn Tế tiếp độ, Ngài Như Cự ở đó tu học, cùng một sư huynh nữa là Như Trạm cùng quê với sư đệ Như Thượng ở An Xuân, Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế. Sau gần bốn năm tu học với Ngài Thubten Osall Lama (pháp danh Hòa thượng Nhẫn Tế được Lạt ma quốc vương Tây Tạng ban vào năm 1936) Ngài và các huynh đệ được ban hiệu Như Cự (Viên Chiếu), Như Thượng (Thường Chiếu), Như Trạm (Tịch Chiếu).” (1)
 

Ngài Viên Chiếu ở với sư phụ một thời gian. Sau đó ngài xin sư phụ Minh Tịnh ra Khánh Hòa. Ngài lên núi ở chân Hòn Lớn (vùng Suối Cát) để chuyên tu thiền định. Một ngày nọ, khi người phật tử làng Tân Hưng mang thức ăn đến tận nơi thì thấy Ngài đã thị tịch trong tư thế hành thiền từ bao giờ rồi. Tin tức báo về làng Ngài đã viên tịch đắc đạo ở Suối Cát (Ninh Hưng). Ngài tịch trong tư thế thiền định trên tảng đá, có tảng đá lớn che nhục thân Ngài. Vì vậy làng cho phép phật tử địa phương bê ra lau rửa nhục thân Ngài và đặt Ngài y chỗ cũ. Sau đó, phật tử, dân chúng đắp áo cà sa (hậu vàng) cho Ngài. Rồi dân chúng mỗi người thu nhặt đá mé suối đắp thành bảo tháp cho Ngài.
 

Do vậy, tôi chỉ có duyên học Pháp trực tiếp từ bổn sư là Thầy Tịch Chiếu, và sư thúc Thường Chiếu. Đó là những ơn rất lớn. Bây giờ, tới chặng cuối cuộc đời, khi nhìn lại, tôi biết ơn được học đạo, được hỏi kinh với hai vị Thầy trong hai trú xứ -- Chùa Tây Tạng Bình Dương, nơi Thầy Tịch Chiếu trụ trì; Chùa Huê Lâm, nơi Thầy Thường Chiếu trụ trì. Nếu không có những mái chùa như thế, sẽ không có một Phật giáo như hôm nay ở quê nhà. Và đồng thời, khi nghĩ tới các vị sư tu hạnh đầu đà, lòng tôi luôn luôn nhớ tới Sư Thúc Viên Chiếu, và tự thấy được thúc giục tinh tấn. Tất cả các vị sư chân tu đều là các cột trụ để hoằng pháp.
 

Thầy Minh Tuệ hiện nay đang mang hình tướng của một cư sĩ, và trong tâm Thầy có thể là một vị đã có chứng đắc (điều mà tôi không biết, nơi đây chỉ nêu giả thuyết). Nên thấy, một vị cư sĩ có chứng ngộ, có chứng đắc là điều bình thường trong nhà Phật. Kinh Phật kể rằng, có hai người chưa trở thành cư sĩ (nghĩa là chưa quy y), nhưng chỉ sau vài câu nói của Đức Phật là đắc quả A La Hán: đó là ngài Bahiya (một du sĩ từ phương xa tới hỏi đạo), và ngài Uggasena (chàng nghệ sĩ xiếc, chứng quả ngay khi còn trên trụ biểu diễn giữa chợ). Và 32 vị trí thức Bà La Môn từ xa tới hỏi đạo, cũng đắc quả A La Hán chỉ sau vài câu nói, và được ghi trong 32 bài Kinh trong Kinh Tập, Phẩm Tám và Phẩm Qua Bờ Bên Kia.
 

Do vậy, không nên chấp vào hình tướng mà phán đoán về hành trình của tâm thức. Trong thời Đức Phật, chuyện cư sĩ đắc quả A La Hán là điều bình thường, tới nổi không mấy người thắc mắc như chúng ta hiện nay. Trong Kinh AN 6.120-139, Đức Phật kể tên 20 cư sĩ đã “đi đến cứu cánh nơi Như Lai, sống thấy được bất tử, chứng ngộ được bất tử,” tức là chứng quả A La Hán. Kinh này, trích bản dịch của Thầy Minh Châu như sau:
 

“—Thành tựu sáu pháp, này các Tỷ-kheo, gia chủ Bhallika… gia chủ Sudatta Anàthapindika… gia chủ Citta Macchikàsandika… Hatthaka Alavaka… Mahànàma Sakka… gia chủ Ugga người Vesàlì… gia chủ Uggata… Sùra Ambattha… Jivaka Komàrabhacca… gia chủ Nakulapità… gia chủ Tavakannika…gia chủ Pùrana… gia chủ Isidatta… gia chủ Sandhàna… gia chủ Vijaya… gia chủ Vajjiyamahito… gia chủ Mendaka… cư sĩ Vàsettha… cư sĩ Arittha… cư sĩ Sàragga đi đến cứu cánh nơi Như Lai, sống thấy được bất tử, chứng ngộ được bất tử. Thế nào là sáu?” (2)


 

Có luận thư nói rằng, người cư sĩ có thể tu tới đắc quả Bất Hoàn (Anagami). Một số cư sĩ có thể đạt được quả vị A La Hán, chỉ khi cận kề cái chết hoặc ngay trước khi xin gia nhập Tăng đoàn, phải xuất gia trong vòng 7 ngày. Luận thư nói thế, nhưng hình như không có kinh nào ghi lời Đức Phật nói như thế.
 

Còn như trường hợp cư sĩ đắc quả Bất Hoàn thì nhiều vô số kể, theo Kinh MN 68 và Kinh MN 73. Nơi đây, chúng ta dẫn lời Đức Phật nói trong Kinh MN 73, qua bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:

Này Vaccha, không phải chỉ một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm mà còn nhiều hơn thế nữa là những Nam cư sĩ, là đệ tử sống tại gia, mặc áo trắng, theo Phạm hạnh, sau khi đã đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết-bàn tại chỗ ấy, không phải trở lại đời này nữa.” (3)
 

Nơi đây, với lòng tôn kính, tôi xin góp ý với Thầy Minh Tuệ rằng, những gì Thầy đã làm đều rất là tuyệt vời, hy hữu. Tuy nhiên, sức khỏe thân người có hạn, sẽ tới lúc Thầy bệnh. Thêm nữa, Đức Phật không khuyến khích đi bộ đường dài. Trong Kinh, chúng ta thường đọc thấy rằng, Đức Phật nói: “Này các Tỷ-kheo, đây là những gốc cây, đây là những căn nhà trống, hãy tu tập Thiền định. Chớ có phóng dật.” Nghĩa là, Đức Phật muốn chư tăng tìm một trú xứ để tu Thiền định.
 

Trong Kinh Tăng Nhất A Hàm EA 33.7 (tương đương trong Tạng Pali là hai Kinh AN 5.221 và AN 5.222), Đức Phật dạy qua bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng:

Tôi nghe như vầy: Một thời, đức Phật trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ: Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: “Người du hành trường kỳ có năm sự khó. Sao gọi là năm? Ở đây, người thường du hành không tụng giáo pháp; giáo pháp đã tụng thì bị quên mất; không được định ý; tam-muội đã được lại thoái thất; nghe pháp nhưng không thể hành trì. Này các Tỳ-kheo, đó gọi là người du hành nhiều có năm việc khó này.

“Các Tỳ-kheo nên biết, người không du hành nhiều có năm công đức. Sao gọi là năm? Pháp chưa từng đắc sẽ đắc, pháp đã đắc rồi lại không quên mất, nghe nhiều mà ghi nhớ được, có thể đắc định ý, đã đắc tam-muội rồi không bị mất. Này các Tỳ-kheo, đó gọi là người không du hành nhiều có năm công đức này. Cho nên, này các Tỳ-kheo, không nên du hành nhiều. Các Tỳ-kheo, cần phải học điều như vậy.”(4)
 

Tới đây, chúng ta chúng ta có thể nhớ rằng, Kinh Phật có ghi về vị Thần Y tên là Kỳ Bà (Jivaka). Thần Y Kỳ Bà đã chăm sóc sức khỏe Đức Phật thế nào? Hiển nhiên, ngài Thần Y muốn Đức Phật khỏe mạnh, không bệnh, và ngồi trong một tu viện. Bởi vì, mưa rơi, gió thổi, sương đêm, rừng lạnh… tất nhiên sẽ làm hao mòn sức khỏe của người du hành.
 

Tiểu sử Thần Y Kỳ Bà nơi đây tóm lược theo Buddhanet và Wikipedia, sẽ cho thấy cách chăm sóc sức khỏe cho Đức Phật và chư Tăng thời xưa. Ngài Jivaka là bác sĩ của Đức Phật. Jivaka là bác sĩ nổi tiếng nhất ở Ấn Độ vào thời Đức Phật. Ngay sau khi chào đời, Jivaka được mẹ cậu, một kỹ nữ, đặt vào một chiếc hộp gỗ và quăng vào đống rác ven đường. Bản Pali ghi rằng cùng buổi sáng bé Jivaka bị bỏ rơi, hoàng tử Abhaya, con trai của vua Bimbisara, tình cờ đi ngang qua bãi rác trên đường về cung điện. Khi hoàng tử nhìn thấy em bé vẫn còn sống, ông đã động lòng thương xót và ra lệnh nhận bé Jivaka làm con nuôi. Theo dị bản tiếng Sanskrit và các bản dịch tiếng Tây Tạng đầu tiên theo truyền thống Mūlasarvāstivāda nói rằng ngài Jivaka sinh ra là con ngoài giá thú của Vua Bimbisāra và một phụ nữ ẩn danh. Điểm chung của tất cả các tiểu sử đều cho thấy rằng Jivaka tuy là con nuôi của một hoàng tử, nhưng được yêu quý rất mực.
 

Khi lớn lên, ngài Jivaka học y khoa bảy năm dưới sự hướng dẫn của một bậc thầy nổi tiếng. Chẳng bao lâu sau, kỹ năng khác thường của Jivaka với tư cách là một bác sĩ và bác sĩ phẫu thuật đã được biết đến. Jivaka được yêu cầu chữa trị cho các vị vua và hoàng tử, trong đó có cả vua Bimbisara. Nhưng trong số tất cả những người nổi tiếng mà Jivaka đã chăm sóc y tế, niềm vui lớn nhất của Jivaka là được đến chăm sóc Đức Phật, điều mà Jivaka đã làm 3 lần một ngày.
 

Thần Y Jivaka đã chăm sóc Đức Phật bằng nhiều cách. Khi Devadatta ném đá xuống để hại Đức Phật, và làm bị thương bàn chân của Đức Phật, chính Jivaka đã chữa lành cho Đức Phật.
 

Nhận thấy lợi ích của việc có một tu viện gần nhà, Jivaka đã xây dựng một tu viện trong vườn xoài của mình. Jivaka đã mời Đức Phật và các đệ tử của Đức Phật đến tu viện, bố thí và dâng tặng tu viện cho Đức Phật và chư Tăng. Sau buổi lễ gia trì của tu viện này, Jivaka đã đạt đến giai đoạn đầu tiên của thánh quả (sotapanna: dự lưu).
 

Sau đó, khi vua Ajatasattu hỏi ông có thể đi đâu để nghe giảng về Chánh pháp, chính Jivaka đã đưa vua đến gặp Đức Phật. Mặc dù nhà vua đã giết phụ thân theo lời khuyên tệ hại của Devadatta, nhưng vua Ajatasattu sau đó đã trở thành một cư sĩ xuất sắc của Đức Phật và đã hỗ trợ Hội đồng Phật giáo đầu tiên (First Buddhist Council) sau khi Đức Phật nhập diệt.

blankHình Wikipedia: Thần y Jīvaka (áo trắng) đang nói với Đức Phật. Tranh Miến Điện vẽ năm 1875. Để giữ sức khỏe cho Đức Phật, Thần y Kỳ Bà xây 1 tu viện trong vườn xoài và dâng cúng Đức Phật, mỗi ngày vào 3 lần vấn an sức khỏe Đức Phật.
 

Tới đây, có thể nêu câu hỏi, để học theo Đức Phật, chúng ta nên suy nghĩ thế nào? Nên tôn kính cả tăng ni và cư sĩ, vì ai cũng có thể đắc quả thánh. Nên tôn kính các vị tu hạnh đầu đà, và tôn kính cả các vị đang cư trú trong các tự viện gần thị trấn. Đức Phật có dạy hạnh đầu đà (mà ngài Ca Diếp là đệ nhất), nhưng không muốn chư tăng du hành đường dài, mà chỉ muốn chư tăng du hành từ nơi ẩn cư, xuống núi, vào làng xóm để khất thực. Lời Đức Phật thường dạy nhất là, hãy tìm góc rừng, gốc cây, nhà trống mà tu Thiền định. Ngài Thần Y Jivaka, trong cương vị bác sĩ,  đã xây tu viện trong khuôn viên vườn để dâng cúng Đức Phật, và đã tới vấn an sức khỏe Đức Phật nhiều lần mỗi ngày, nghĩa là, lo cho sức khỏe là cần quan tâm hàng ngày.
  

Bài viết này hoàn toàn không có ý tranh luận. Chỉ là trích dẫn lời Đức Phật dạy để tùy nghi mỗi người tự thích ứng, sao cho lợi mình, và lợi người.
 

Nguyên Giác

(California, tháng 5/2024)

  

GHI CHÚ:

(1) Sách “80 Năm Kỷ Niệm Tây du Phật quốc”: https://thuvienhoasen.org/images/file/MTemVP6V0ggQAPE8/80-nam-tay-du-ky-phat-quoc.pdf

(2) Kinh AN 6.120-139: https://suttacentral.net/an6.120-139/vi/minh_chau

(3) Kinh MN 73: https://suttacentral.net/mn73/vi/minh_chau

(4) Kinh EA 33.7: https://suttacentral.net/ea33.7/vi/tue_sy-thang

   

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
3 videos ngắn cho thấy “hiện tượng xuất hiện trong không gian không xác định” đã được công bố bởi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Các video, đã được phổ biến trước đây bởi một công ty tư nhân, cho thấy cái gì đó trông giống các vật bay không xác định di chuyển nhanh trong khi được thu hình bởi các máy thu hồng ngoại tuyến, theo CNN tường trình cho biết. 2 trong 3 video, các quân nhân có thể nghe được sự phản ứng các vật bay nhanh như thế nào. Một giọng nói cho thấy nó có thể là một chiếc robot.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tối nay 22 Tháng Tư, chính quyền Trump đã ban hành một Sắc lệnh mở rộng những hạn chế về nhập cư trong một nỗ lực rộng lớn để tiếp tục chương trình bài ngoại nhằm đánh lạc hướng người Mỹ về thất bại của chính họ qua các giải pháp thích ứng với đại dịch coronavirus. Sắc lệnh này được xây dựng trên một số chính sách chống người nhập cư do chính quyền đưa ra trong vài năm qua đóng cửa gần như tất cả các con đường hợp pháp để nhập cư.
Bắt đầu từ sau giữa tháng Ba 2020, hầu hết các doanh nghiệp không thiết yếu trên khắp Hoa Kỳ đều đã lần lượt được lệnh phải đóng cửa để ngân chận sự lây lan của Coronavirus, trong đó có hàng chục ngàn tiệm Nail của người gốc Việt. Vì buộc phải đóng cửa một cách bất ngờ và cũng bởi chưa đến ngày trả lương theo định kỳ, nhiều chủ tiệm Nail đã không kịp thanh toán cho nhân viên khoản tiền lương của những ngày đã làm việc từ sau lần lãnh lương trước đó cho đến ngày ngưng làm việc vì Coronavirus. Ngoài ra, vì nghĩ rằng sẽ không bị buộc phải đóng cửa quá lâu, nhiều chủ tiệm Nail dự tính sẽ trả đủ tiền lương ngay khi nhân viên trở lại làm việc. Tuy nhiên, rất ít chủ doanh nghiệp hiểu rằng không thanh toán tiền lương theo đúng quy định cho nhân viên sau khi nghỉ việc, sẽ là nguyên nhân dẫn đến vô số rắc rối về pháp lý.
Những người có khuynh hướng cực đoan trong chính kiến, dù hữu khuynh hay tả khuynh, đều có những đặc điểm giống nhau và rất khác người ôn hoà. Bài viết này tóm lược một nghiên cứu tâm lý học đăng trên Sage Journals tháng Giêng 2019. Hy vọng nó sẽ giúp ta hiểu thêm về hiện tượng tâm lý chính trị cực đoan để tránh bị khích động, đồng thời giúp ta tìm ra cách hoá giải. Xin lưu ý “hữu khuynh”và “tả khuynh” trong bài được dùng theo định nghĩa thông thường và hoàn toàn không hàm ý tốt hay xấu. Trong chính trị học, cộng đồng con người thường được chia làm ba nhóm: cấp tiến (liberal), trung hoà (moderate) và bảo thủ (conservative). Sự phân cách này phần lớn xuất phát một cách tự nhiên, nhưng nó cũng có thể được nhào nặn thêm bởi giáo dục, truyền thống, truyền thông, xã hội v.v.
nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Chết phải là một chuyến du lịch tuyệt vời vì chưa có một ai đã trở về!(“La mort doit être un beau voyage puisque personne n'en est revenue”). Thông thường trong những dịp Tết, người đời thường chúc tụng lẫn nhau sống thọ đến trăm tuổi. Không phải ai muốn chết lúc nào là chết được đâu. Phải tới số mới chết. Trời kêu ai nấy dạ mà Sống quá thọ có tốt, có cần thiết không? Không có ai nghĩ giống ai hết. Đặt câu hỏi như trên có thể làm nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng đó là sự thật. Tuổi thọ (longévité) trong điều kiện sức khoẻ bình thường, không ngừng gia tăng thêm lên mãi tại các quốc gia kỹ nghệ giàu có... Sự gia tăng nầy thật ra phải được xem như là một sự kéo dài của tuổi trẻ (jeunesse) hơn là một sự kéo dài của…tuổi già (vieillesse). Tại sao chúng ta già? Tuổi thọ đến lúc nào sẽ dừng lại? Nhân loại đã đạt được đến mức nầy hay chưa?
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
Vào lúc 5:00 giờ chiều Chủ Nhật 26/04/2020, Hòa Thượng Thích Phước Tịnh đã có buổi nói chuyện trên mạng lần thứ hai với nhóm Phật tử Giớ Trẻ Mây Từ, với chủ đề những điều Phật tử nên làm trong mùa đại dịch COVID-19 đang tiếp tục hoành hành.
New York bị thiệt hại nặng nề hơn bất cứ khu vực nào tại Hoa Kỳ bởi đại dịch vi khuẩn corona tính đến nay, 26 tháng 4, và ác mộng của tiểu bang vẫn còn chưa hết. Hôm Thứ Bảy, 25 tháng 4, có 5,902 người đã thử nghiệm dương tính với vi khuẩn corona, và trong khi đó là sự sút giảm từ cao điểm của tiểu bang (khi một ngày chứng kiến hơn 10,000 người thử nghiệm dương tính), tiểu bang này vẫn còn nhiều trường hợp bị lây mới hơn 25 tiểu bang đã bị trong tổng số hơn 3 tháng kể từ vụ lây lan của vi khuẩn vào Mỹ bắt đầu.
Nam Hàn tiếp tục đổ nước vào suy đoán gia tăng về sức khỏe của lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong Un, nói với CNN rằng ông ấy “còn sống và khỏe.” “Lập trường của chính phủ chúng tôi là vững vàng,” theo Moon Chung-in, cố vấn hàng đầu về chính sách đối ngoại cho Tổng Thống Nam Hàn Moon Jae-in, nói với CNN. “Kim Jong Un còn sống và khỏe. Ông ấy đã và đang ở tại khu vực Wonsan kể từ ngày 13 tháng 4. Không có biến đổi gì đáng nghi ngờ tính đến nay được phát hiện cả.”
Đúng vậy, sau gần nửa thế kỷ năm nhìn lại vẫn thấy biến cố 30.04.1975 xảy ra quá bất ngờ đối với toàn thể dân VN chúng ta. Bằng chứng hiển nhiên là rất nhiều cấp lãnh đạo VNCH trong chánh quyền và trong quân đội không ngờ được nên đành phải bị bắt đi tù cải tạo cả hàng chục năm để rồi chết dần mòn trong rừng thiêng nước độc. Nói chi đến người dân bình thường thiếu thông tin của cả 2 miền Nam Bắc tất cả không ai cảm thấy hoặc đoán trước được chuyện sẽ xảy ra. Sự thực này chúng ta có thể đọc thấy rõ trên các tài liệu của 2 miền.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.