Hôm nay,  

Song Ngữ: Vô Tâm Là Đạo: Kinh Bahiya

10/12/202409:28:00(Xem: 3271)
VÔ TÂM LÀ ĐẠO: KINH BAHIYA

Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central.

Một đạo sĩ tên là Bahiya cư trú ở thị trấn Supparaka. Bahiya được cư dân tôn kính, cúng dường y phụ, nhà ở và nhiều thứ. Bahiya tự tin rằng đã chứng quả A la hán, hoặc sắp thành A la hán. Một vị cõi trời, kiếp trước từng là người thân của Bahiya, muốn điều tốt lành cho Bahiya, nên hiện ra, nói với Bahiya rằng Bahiya chưa phải là A la hán, và cũng chưa tu đúng con đường để trở thành A la hán.

Bahiya nói, vậy thì ai đang là A la hán, hoặc đã bước vào con đường trở thành một vị A-la-hán.

Vị cõi trời nói rằng Đức Phật, đang nơi thành Xá Vệ ở phía Bắc, là một vị A la hán và đang dạy pháp để trở thành một bậc A la hán.

Bahiya rời thị trấn Supparaka, đi khẩn cấp tới thành Xá Vệ, vào vườn Cấp Cô Độc, gặp một số nhà sư đang thiền hành ngoài trời. Bahiya hỏi, xin gặp Đức Phật, và được cho biết rằng Đức Phật đang đi khất thực.

Bahiya vào thành Xá Vệ, thấy Đức Phật đang đi khất thực, vẻ ngoài thanh thản, tĩnh lặng. Bahiya tới gần, quỳ lạy xuống đất, đầu chạm chân Đức Phật và xin được học Pháp.

Đức Phật trả lời Bahiya rằng chưa phải lúc, vì Phật đang vào nhà dân để khất thực.

Bahiya nói rằng vô thường nhanh chóng, chưa biết thọ mạng còn sống bao lâu, nền cần học Pháp khẩn cấp.

Lần thứ nhì, Đức Phật trả lời Bahiya rằng chưa phải lúc, vì Phật đang vào nhà dân để khất thực.

Lần thứ ba, Bahiya nói rằng chưa biết thọ mạng còn sống bao lâu, nền cần học Pháp khẩn cấp.

Đức Phật trả lời Bahiya, vậy thì phải tự rèn luyện như sau:

Này Bahiya, trong cái được thấy chỉ có cái được thấy, trong cái được nghe chỉ có cái được nghe, trong cái được cảm thọ chỉ có cái được cảm thọ, trong cái được thức tri chỉ có cái được thức tri. Do đó, Bahiya, ông sẽ không ở với cái đó; và vì, Bahiya, ông sẽ không ở với cái đó, do đó, Bahiya, ông sẽ không ở trong cái đó; và vì, Bahiya, ông sẽ không ở trong cái đó, do đó, Bahiya, ông sẽ không bị dính mắc ở nơi đây hay ở kiếp sau, hay ở giữa hai cái đó. Chỉ như thế là chấm dứt đau khổ.
 
Khi nghe lời dạy ngắn gọn này, Bahiya lập tức giải thoát khỏi các lậu hoặc bằng cách không dính mắc. Không lâu sau khi Đức Phật rời đi, một con bò con đã tông vào Bahiya, và giết chết Bahiya.
 
Khi Đức Phật khất thực xong, quay lại, thấy Bahiya đã chết. Đức Phật yêu cầu các nhà sư đặt xác Bahiya lên chết, đốt và dựng tượng đài, vì đó là bạn đồng tu của các sư.
 
Các nhà sư làm xong, hỏi Đức Phật rằng đời sau của Bahiya ở đâu, là gì. Đức Phật đáp rằng Bahiya đã thực hành đúng Pháp và đã vào Niết bàn tối hậu.
 
Sau đó, Đức Phật đọc bài kệ:
Nơi nào nước, đất, lửa và gió không có chỗ đứng,
Nơi nào các vì sao không chiếu sáng, và mặt trời không có ánh sáng,
Nơi nào mặt trăng không tỏa sáng, và bóng tối không thể tìm thấy,
Khi một người tự mình biết điều này – một người thánh thiện có trí tuệ thực sự,
Khi đó, người ấy được giải thoát khỏi cả hình tướng và vô tướng, xa lìa cả khoái lạc và đau khổ.
 
Video dài 4:24 phút:

https://youtu.be/lf-o7TTfmRY
   
.... o ....
 
NO-MIND IS THE WAY: BAHIYA SUTTA

Zen teaches that those who live with No-mind are liberated. Tran Nhan Tong, a renowned Vietnamese Zen master from the 13th century, once wrote that when encountering any phenomenon, if one can maintain No-mind, there is no need to inquire further about Zen. The Buddha previously taught the Dharma of No-mind in the Udana Sutra 1.10. This article will draw upon various English translations available on Sutta Central.


A hermit named Bahiya lived in the town of Supparaka. The townspeople revered Bahiya, offering him robes, a house, and many other gifts. Bahiya was confident that he had attained Arahantship or was on the path to becoming an Arahant. However, a deva, who had been a relative of Bahiya in a previous life, appeared to him and conveyed that he was neither an Arahant nor on the correct path to achieving Arahantship.
 
Bahiya stated that he was an Arahant or had embarked on the path to becoming one. The deva responded that the Buddha, who resided in the northern city of Savatthi, was indeed an Arahant and was teaching the Dhamma to help his disciples attain Arahantship.
 
Bahiya left the town of Supparaka, hurried to Savatthi, entered Anathapindika's garden, and encountered some monks engaged in walking meditation outdoors. Bahiya requested to see the Buddha but was informed that the Buddha was out on his alms round.
 
Bahiya entered Savatthi and saw the Buddha on his alms round, appearing serene and calm. Bahiya approached, prostrated himself on the ground, touched his head to the Buddha's feet, and requested to learn the Dhamma.
 
The Buddha replied to Bahiya that it was not yet the right time, as he was going into people's homes to beg for alms.
 
Bahiya stated that impermanence is swift, and since he did not know how long he would live, he felt an urgent need to learn the Dhamma.

The second time, the Buddha responded to Bahiya that it was not yet the appropriate moment, as he was going to people's homes to beg for alms.

The third time, Bahiya expressed that he did not know how long he would live, so he urgently needed to learn the Dhamma.

The Buddha advised Bahiya to train himself in the following manner.
 
"And since for you, Bahiya, in what is seen there will be only what is seen, in what is heard there will be only what is heard, in what is sensed there will be only what is sensed, in what is cognized there will be only what is cognized, therefore, Bahiya, you will not be with that; and since, Bahiya, you will not be with that, therefore, Bahiya, you will not be in that; and since, Bahiya, you will not be in that, therefore, Bahiya, you will not be here or hereafter or in between the two—just this is the end of suffering."
 
Upon hearing this brief teaching, Bahiya was immediately liberated from his defilements through non-attachment. Shortly after the Buddha departed, a young cow struck Bahiya, resulting in his death.
 
When the Buddha returned from his alms round, he discovered that Bahiya had passed away. The Buddha instructed the monks to place Bahiya's body on the ground, burn it, and erect a monument in his honor, as he was their fellow monk.
 
When the monks had finished, they asked the Buddha about Bahiya's next life and its destination. The Buddha replied that Bahiya had practiced the Dhamma correctly and had attained final Nirvana.
 
Then the Buddha recited the following verse:
Where water, earth, fire, and wind have no place,
Where the stars do not shine and the sun provides no light,
Where the moon does not shine and darkness cannot be found,
When one experiences this firsthand—a holy person possessing true wisdom—
Then one is liberated from both form and formlessness, transcending both pleasure and pain.
 
Video, 4:44 minutes long:

https://youtu.be/p4x9fLmm1VU

Reference:
https://suttacentral.net/ud1.10/en/sujato
https://suttacentral.net/ud1.10/en/anandajoti



.... o ....

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Vào những ngày đầu Xuân các hội đoàn, cộng đồng thường tổ chức những buổi tiệc tùng, hợp nhóm, hợp bạn…để đón Xuân và cũng để hoài niệm, nhớ thương về quê hương, đồng bào thân yêu còn bên kia chân trời xa thăm thẳm.
Một di sản văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam vừa được Viện Việt Học trình bày trước công chúng: ấn hành tác phẩm “Tuồng Kim Vân Kiều: Truyện Kiều ở Nam Kỳ Lục Tỉnh” (Hồi 1/3) vừa được Giáo sư Nguyễn Văn Sâm phiên âm và giới thiệu
Phiên xử luận tội lần thứ 3 trong lịch sử Hoa Kỳ đã bắt đầu vào Thứ Năm, 16 tháng 1 năm 2020 giữa một loạt các cáo buộc mới về các thương lượng của TT Trump với Ukraine, mà nhiều nhà lập pháp Cộng Hòa đã vội vã hạ thấp mức độ quan trọng khi họ bác bỏ các lời kêu gọi của những nhà lập pháp Dân Chủ đòi điều tra thêm.
Trong vòng một thập niên qua, số lượng – và chiều kích – của viện bảo tàng, phòng trưng bày, hội chợ nghệ thuật, và trường nghệ thuật trên khắp thế giới đã gia tăng dữ dội, và người ta cảm thấy an tâm để nói rằng nhiều nghệ thuật đã được sáng tạo trong vòng 10 năm qua hơn bất cứ thời gian nào khác trong lịch sử nhân loại.
Nghệ sĩ không phải chỉ là người sáng tạo nên tác phẩm. Nghệ sĩ còn là kẻ sáng tạo nên bản thân mình. Không ngừng. Họa sĩ Võ Đình khằng định như vậy trong cuốn Mây Chó. Về cuối đời ông viết nhiều hơn vẽ. Sau 10 năm sống ở Pháp sang Mỹ năm 1960 qua nhiều tiểu bang, nơi đâu ông cũng thích ngụ ở vùng thôn dã.
Lời tòa soạn: Từ Franz Kafka đến Milan Kundera, hai nhà văn kiệt xuất của thế kỷ XX. Cả hai đều có chung một nền tảng văn hóa, một khảo hướng và một chủ hướng văn học: làm mới văn chương và dùng tiểu thuyết để nói những điều chỉ tiểu thuyết mới nói được. Cả hai đều để lại cho hậu thế những kiệt tác văn học, ảnh hưởng bao trùm gần như toàn thể nhân loại. Kafka sống vào đầu thế kỷ, Kundera vẫn còn tại thế dù năm nay, 2020, đã trên 90 tuổi. Việt Báo hân hạnh gửi đến độc giả Việt bốn phương ít dòng tiêu biểu của hai nhà văn lừng lẫy này qua phần chuyển ngữ và giới thiệu của dịch giả Trịnh Y Thư.
Nhà văn Dương Hùng Cường sinh ngày 1/10/1934 tại Hà Nội. Ông gia nhập Không quân và học về cơ khí tại Pháp năm 1953. Ông là hạ sĩ quan phục vụ ở nhiều đơn vị từ 1955, đến những năm 1960 mang cấp bậc Chuẩn úy, làm việc tại Phòng Tâm lý chiến, Bộ Tư lệnh Không quân VNCH.
Một đất nước mà chính quyền bao che cho quan chức từ cao xuống thấp cướp đất của dân để trở thành quốc nạn là điều bất hạnh cho dân tộc, và hiện tượng này đã không dừng ở đó mà còn đi xa hơn nữa để biến nó thành mối hận thù giữa dân oan và nhà nước như trường hợp xảy ra trong tuần qua tại xã Đồng Tâm.
Nhân dịp Xuân Canh Tý Chùa Phật Tổ có liên lạc được với building gần Chùa khoảng 2 Miles, Phật tử có thể đậu xe tại 1305 E . Pacific Coast Highway, Long Beach, CA 92806 lot # 1 Mỗi xe trả lệ phí $2.00 và sẽ có xe đưa đón đến chùa vào những ngày 25, 26 tháng 1 và 1, 2, 8, 9 tháng 2. Rất mong Quý Phật Tử hoan hỉ cảm thông cho sự bất tiện về đi lại và kính mời quí vị về Chùa đón Xuân Canh Tý 2020. LL (562) 599-5100.
Hàng ngàn năm trước, một người phụ nữ trẻ thời Đồ Đá Mới mà hiện nay nằm ở nước Đan Mạch đang nhai một miếng nhựa cây thông. Phân tích DNA của “miếng kẹo cao su đang nhai” của người thời Đồ Đá Mới hiện đã được công bố, trong chi tiết rất đáng lưu ý, người phụ nữ này trông giống gì, theo bài báo được đăng hôm 17 tháng 12 năm 2019 trong tạp chí Nature Communications được phổ biến trên trang mạng www.livescience.com
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên www.Facebook.com/rmiodp vào mỗi tối thứ Tư , từ 7:00-8:00 giờ, hoặc sáng thứ Năm lúc 10:00 sáng, giờ Việt Nam.
Hôm nay nhằm ngày nghỉ, sáng vẫn thức sớm vì thói quen hằng ngày, cơ thể điều khiển chị giờ đó phải ngồi dậy, có muốn nướng thêm chút xíu cho chín đều cái lưng ngày xưa thon thon như cá lòng tong bây giờ bự bự như cá voi, cũng không xong.
Boot cao ống chỉ thích hợp ở những vùng mùa đông rất lạnh, hay có tuyết mà thôi. Nếu ở xứ nóng, không có tuyết mà diện giày boots có hơi khác thường. Có thể chọn loại boots cao tới mắc cá thì thích hợp hơn cho thời tiết lạnh hay mưa.
Thí sinh đi thi rất căng thẳng do đó dễ bị mệt mỏi, khi thi sẽ quên đầu quên đuôi, lập cập, lúng ta lúng túng…
Chọn kiếng mát tùy theo hình dạng của khuôn mặt. Chúng ta có thể phân loại 6 khuôn mặt như: mặt tròn, mặt dài, mặt vuông, mặt trái soan, mặt tam giác, mặt trái tim.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.