Hôm nay,  

Song ngữ: Đức Phật dạy: Thường trực thấy vô ngã sẽ giải thoát

13/12/202407:38:00(Xem: 3342)

Đức Phật dạy: Thường trực thấy vô ngã sẽ giải thoát
 

Tuệ Trung Thượng Sỹ, một Thiền sư lớn của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng nói rằng muốn vượt qua dòng sông sinh từ cần tự nhìn thấy thân và tâm mình như một con trâu bùn, vì khi trâu bùn bước xuống sông là sẽ tự tan rã. Nghĩa là, luôn luôn tự thấy mình là vô ngã, và đó là cách vượt sông sinh tử. Đó cũng là một cách mô tả lời dạy của Đức Phật.
 

Trong Kinh SN 12.70 Sutta và Kinh SA 347 Sutra, Đức Phật dạy rằng những người thường trực thấy thân và tâm là vô ngã sẽ giải thoát, sẽ trở thành A la hán, mà không cần tu luyện bất kỳ thần thông nào phức tạp.
 

Hai kinh này kể chuyện một người ngoại đạo tên là Susima xuất gia, vào trong Tăng đoàn của Đức Phật. Khoảng nửa tháng sau, Susima nhìn thấy nhiều vị sư tới trước Đức Phật, bạch rằng họ đã chứng quả A la hán, rằng họ đã làm xong những việc nên làm. Đức Phật chấp nhận rằng các vị sư đó đã chứng quả A la hán, đã giải thoát.
 

Sau đó, Susima hỏi các vị sư đó rằng có phải các sư đã chứng thần thông, đã đi xuyên ngang qua vách, qua núi, đã đi trên nước không chìm như đi trên đất liền, hay đã ngồi kiết-già bay trên hư không như chim bay. Các vị sư đó nói rằng họ không có thần thông như thế.
 

Susima hỏi các vị sư đó rằng có phải các sư đã chứng được thiên nhĩ, có thể nghe xa ngàn dặm. Các vị sư đó nói rằng họ không có thần thông như thế.

Susima hỏi các vị sư đó rằng có phải các sư đã chứng được tha tâm thông, biết được tâm của các chúng sanh khác, người khác. Các vị sư đó nói rằng họ không có thần thông như thế.
 

Susima hỏi các vị sư đó rằng có phải các sư đã nhớ được nhiều đời quá khứ. Các vị sư đó nói rằng họ không có thần thông như thế.
 

Susima hỏi các vị sư đó rằng có phải các sư đã đắc tứ thiền, hay tam thiền, hay nhị thiền, hay sơ thiền. Các vị sư đó nói rằng họ không có các định lực như thế.
 

Susima hỏi các vị sư đó rằng vì sao các sư tự biết đã chứng quả A la hán. Các sư nói rằng các sư đã chứng được tuệ giải thoát.
 

Sau đó Susima tới bạch với Đức Phật, được Đức Phật giải thích là: Đúng là các vi sư kia đã chứng quả A la hán nhờ có tuệ giải thoát, họ có hiểu biết về các pháp vận hành trong Duyên khởi, sau là trí tuệ về Niết-bàn.
 

Đức Phật nói rằng trước tiên phải thấy rằng sắc là vô thường. Tức là tất cả những gì được thấy, nghe, ngửi, nếm, chạm xúc, tư lường đều là vô thường. Vì chúng là vô thường, nên sẽ khổ, chịu sự biến hoại, nên cần phải được quán như chơn như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi.”
 

Tương tự, với thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế, cần phải được quán như chơn như sau: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”.
 

Khi người tu thấy như thế, sẽ nhàm chán, và rồi ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát. Trong sự giải thoát, trí khởi lên biết rằng: “Ta đã giải thoát.”
 

Kinh Phật có kể về một cách để thường trực quán như chơn rằng: Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi.

Đức Phật kể về ẩn dụ tiếng đàn. Có một vị vua một hôm nghe tiếng đàn hay chưa từng có, nên yêu cầu các quan đem tiếng đàn tới. Các quan dâng lên vua cây đàn, nói rằng tiếng đàn từ cây đàn, nhưng là xuất phát từ hàng trăm duyên khác nhau, từ dây đàn, gỗ làm cán đàn và thùng đàn, từ người đàn giỏi từng học nhiều năm. Nếu thiếu một duyên, thì không thể có tiếng đàn. Thêm nữa, tiếng đàn chuyển biến từng khoảnh khắc, vừa sinh ra là đã diệt mất, nên không thể nắm giữ lấy tiếng đàn, vì tất cả những cái được nghe đều là vô ngã.
 

Sau khi kể về ẩn dụ tiếng đàn, Đức Phật nói rằng người tu cần phải quán sát sắc, thọ, tưởng, hành và thức không hề có cái gì là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi.
 

Video dài 4:36 phút:


https://youtu.be/KWv8cMwkMUI 

.
.... o ....


Buddha taught that the continuous recognition of non-self leads to liberation.
 

Tuệ Trung Thượng Sỹ, a prominent Vietnamese Zen master of the 13th century, once stated that to traverse the river of birth and death, one must perceive one’s body and mind as a mud buffalo. When a mud buffalo enters the river, it disintegrates. In other words, one should always view oneself as non-self; this perspective is the key to crossing the river of birth and death. This concept also serves as a fundamental description of the Buddha’s teachings.
 

In the SN 12.70 Sutta and the SA 347 Sutra, the Buddha taught that those who consistently perceive the body and mind as non-self will attain liberation and become Arahants, without the need to develop any complex supernatural powers.
 

These two suttas recount the story of a non-Buddhist named Susima who joined the Buddha's Sangha. Approximately two weeks later, Susima observed many monks approaching the Buddha, reporting that they had achieved Arahantship and fulfilled their spiritual obligations. The Buddha acknowledged that these monks had indeed attained Arahantship and were liberated.
 

Then Susima asked the monks whether they had attained any supernatural powers, passed through walls and mountains, walked on water without sinking as if on land, or sat cross-legged and flown in the air like birds. The monks replied that they possessed no such supernatural abilities.
 

Susima inquired of the monks whether they had achieved divine hearing, the ability to hear from a thousand miles away. The monks replied that they did not possess such supernatural abilities.
 

Susima inquired of the monks whether they had achieved telepathy, the ability to read the minds of other beings and individuals. The monks responded that they did not possess such supernatural powers.
 

Susima asked the monks if they remembered many past lives. The monks replied that they did not possess such supernatural abilities.
 

Susima inquired of the monks whether they had achieved the fourth jhana, the third jhana, the second jhana, or the first jhana. The monks replied that they did not possess such powers of concentration.
 

Susima asked the monks how they knew they had attained Arahantship. The monks replied that they had achieved liberating wisdom.
 

Then Susima went to inform the Buddha, who explained: It is true that those monks attained the fruit of Arhatship through liberating wisdom. First, they gained an understanding of the dharmas involved in Dependent Origination, and subsequently, they acquired wisdom about Nirvana.
 

The Buddha taught that one must first recognize the impermanence of form. In other words, everything that is seen, heard, smelled, tasted, touched, or thought about is transient. Because it is impermanent, it leads to suffering and is subject to change; therefore, it must be contemplated as it truly is: “This is not mine, this I am not, this is not my self.”
 

Similarly, feelings, perceptions, mental formations, and consciousness should be contemplated as they truly are: “This is not mine, this I am not, this is not my self.”
 

When the practitioner observes this, he becomes disinterested and subsequently relinquishes desire. By letting go of desire, he attains liberation. In this state of liberation, wisdom emerges, accompanied by the realization: “I am liberated.”
 

The Buddhist scriptures describe a method for continually contemplating the truth: This is not mine, this I am not, this is not my self.
 

The Buddha once shared the parable of the sound of a lute. One day, a king heard a beautiful melody emanating from a lute and requested his officials to bring him the source of that sound. The officials presented the king with a lute, asserting that the sound originated from the instrument itself. However, the sound was actually the result of numerous factors: the strings, the wood used to craft the lute's body and neck, and the skill of the lute player, who had dedicated many years to mastering the instrument. If any one of these elements were absent, the sound of the lute would not exist. Moreover, the sound of the lute changes with each moment; as soon as it is produced, it fades away, making it impossible to grasp or hold onto the sound.
 

After sharing the metaphor of the lute, the Buddha emphasized that practitioners must recognize that form, feeling, perception, mental formations, and consciousness do not possess anything that can be identified as me, mine, or my self.
 

Video 5:44 minutes long:


https://youtu.be/oLqL8jayaRk
.
Video made by Nguyên Giác

Reference:
SN 12.70 Sutta:
- Thầy Minh Châu: https://suttacentral.net/sn12.70/vi/minh_chau
- Sujato Bhikkhu: https://suttacentral.net/sn12.70/en/sujato
- Bodhi Bhikkhu: https://suttacentral.net/sn12.70/en/bodhi
SA 347 Sutra:
- Thầy Tuệ Sỹ & Thích Đức Thắng: https://suttacentral.net/sa347/vi/tue_sy-thang
SN 35.246 Sutta:
- Thầy Minh Châu: https://suttacentral.net/sn35.246/vi/minh_chau
SA 1169 Sutra:
- Thầy Tuệ Sỹ & Thích Đức Thắng: https://suttacentral.net/sa1169/vi/tue_sy-thang
.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
30 năm nay chương trình Hán hóa Việt Nam của Tàu Cộng và Việt Cộng là DIỆT Tổ quốc Việt, DIỆT Văn Hóa Việt, DIỆT Kinh tế Việt và phải TÀN PHÁ Môi Sanh môi trường sống của người Việt… Để người Việt không thể sống được! Để người Việt PHẢI bỏ nước ra đi …
Hà Nội đã có những đường phố mang tên Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng …, những điểm son của văn học Việt Nam.
Mùa thu ở đây, dù không đặc thù như mùa hoa đào, không mênh mông như mùa thu ở upstate New York, Boston, New Hampshire hay Vermont... mà có lần đã suýt đi lạc trên đường lái xe đi Montreal chỉ thay vì nhìn đường lại cứ mãi mê nhìn những tấm thảm rực rỡ đủ màu trải dài phủ kín những dãy núi
Hôm 17 tháng 12 chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên do Trung Cộng tự chế tạo trong nước có tên Sơn Đông đã được đưa vào hoạt động để nhằm mục đích “kiểm soát” Biển Đông, theo bản tin của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) trích thuật tin của báo TC cho biết hôm 18 tháng 12.
Sau 75 năm có mặt trên đất nước, có bao giờ Quân đội Cộng sản Việt Nam tự hỏi mình: Chúng ta là của dân hay của đảng cầm quyền độc tài?
Hôm Thứ Tư, 18 tháng 12 năm 2019, Hạ Viện Hoa Kỳ đã đưa vấn đề luận tội TT Trump với 2 điều khoản: lạm dụng quyền lực và cản trở Quốc Hội ra thảo luận tại sàn Hạ Viện trong không khí tranh cãi kịch liệt giữa các dân biểu bênh và chống ông Trump.
Trường Thẩm Mỹ Advance Beauty College Gaden Grove, số 10121 Westminster Ave, Thành Phố Garden Grove, CA 92843, đã tưng bừng tổ chức lễ mãn khóa Mùa Đông 2019 cho 250 học viên các ngành thẩm mỹ, đặc biệt có một số học viên tốt nghiệp khóa hớt tóc Nam.
Nhạc Sĩ Vũ Thành An và Nhóm Tri Ân Nghệ Sĩ trân trọng kính mời quý đồng hương và bằng hữu đến tham dự “Ngày Tưởng Nhớ Các Nghệ Sĩ” để cùng dâng lời cầu nguyện cho các nghệ sĩ
“Nói chuyện Tháng Giêng” là đề tài tôi viết để gửi đăng trên một số các báo xuân ở Hải Ngoại cách đây nhiều năm. Câu chuyện xoay quanh một số các từ ngữ từ sau năm 1975, vì lý do này hay lý do khác, hầu như không còn được dùng nữa.
Hơn 750 nhà sử học được kính trọng đã ký tên vào một lá thư ngỏ thúc giục các Dân Biểu Hạ Viện do Đảng Dân Chủ kiểm soát luận tội Tổng Thống Donald Trump vì vụ tai tiếng Ukraine.
Tổng Thống Donald Trump, vị tổng thống hiện đại đầu tiên đối diện luận tội trong nhiệm kỳ đầu tại Bạch Ốc, hiện dẫn đầu các đối thủ Dân Chủ trong cuộc tranh cử nhiệm kỳ 2 của ông, theo thăm dò mới của USA TODAY/Suffolk University Poll cho thấy.
WESTMINSTER (VB) – Một thời ông viết truyện, một thời ông làm thơ, một thời ông dịch các nhà thơ kinh điển Việt Nam sang tiếng Anh, và một thời ông nghiên cứu về Triết học Tây Phương và Đông Phương.
Mỹ đánh thuế lên thép nhập cảng từ Việt Nam lên tới 456% đối với các sản phẩm thép mà VN sử dụng nguyên vật liệu được nhập cảng từ Nam Hàn và Đài Loan, theo bản tin của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA) cho biết hôm 17 tháng 12. Bản tin VOA cho biết thêm thông tin như sau.
Hoa Kỳ liên lạc ngoại giao chính thức với Trung Hoa từ năm 1844, thời nhà Thanh. Quan hệ nầy thay đổi quan trọng từ khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, tức Trung Cộng thành lập năm 1949.
Các nhà khoa học đã tả và đặt tên cho hơn hai chục ngàn loại cá. Phần mềm của các động vật này được dùng làm thực phẩm, mà ta thường gọi chung là cá. Nhưng xương và đầu cá ninh cũng cho nước dùng rất ngọt và có nhiều chất bổ dưỡng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.