Hôm nay,  

Song ngữ: Nghi Phật, Tin Phật Đều Hỏng // Doubting Buddha and Believing Buddha Are Failing

06/01/202508:53:00(Xem: 3433)
blank
 
Nghi Phật, Tin Phật Đều Hỏng

Nguyên Giác

Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi.

Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là  Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải  thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.

Lòng tin là cửa đầu tiên để vào đạo, để thực hành pháp. Tại sao có thiền sư nào nói rằng tin Phật sẽ hỏng? Thậm chí có vị còn nói là gặp Phật thì hãy giết Phật. Nhưng cần phải thấy rõ, hễ nghi Phật là tự mình cắt đứt lối vào, là vi phạm ba lời quy y. Trong Thiền Tông, nhiều vị thầy nói rằng người tu phải từ cửa nghi để hiểu đạo, và để vào đạo. Bởi vì đại nghi mới đại ngộ. Sao lại có chuyện như thế? Vấn đề là ngôn ngữ không mô tả được các trạng thái tâm thức cần thiết. Bởi vì, khi các thiền sư nói cần sự nghi ngờ, thì nhiều thiền sư đó cũng đã có lòng tin sâu dày nơi Đức Phật và có nhiều thập niên giữ khối tin và cả nghi trong tâm.

Nên thấy rằng, cái nghi mà một thiền sư Trung Hoa hay Việt Nam nói, không phải là sự nghi ngờ đơn giản về Đức Phật. Chúng ta có thể dẫn Kinh Pháp Cú, tích truyện 97 ra để ghi nhận rằng, trong tích này, 30 vị sư đã nói rằng ngài Sariputta có sự nghi ngờ Đức Phật, không đủ lòng tin Đức Phật. Điều này xảy ra trong khi ngài Sariputta đã thành tựu giải thoát, và là một trong hai đại đệ tử hàng đầu của Đức Phật.

Chúng ta khảo sát trường hợp này, để sẽ thấy rằng đối với người tu thiền, thì ngay trong khi thiền tập, hễ khởi lòng tin Phật hay khởi lòng nghi Phật đều hỏng. Bởi vì tâm của người tu lúc thiền tập phải lìa bất kỳ tiến trình lý luận nào có thể dẫn tới một kết luận rằng phải thế này hay phải thế kia. Chỉ có luận sư mới đi theo tiến trình lý luận để tới kết luận rằng phải tin Phật hay nghi Phật. Thiền sư chân thực sẽ không rơi vào kết luận nào hết, do vậy không dính vào tin Phật hay nghi Phật.

Chỉ đơn giản là, khi ngài Sariputta hướng dẫn 30 vị sư kia thiền tập về các căn, ngài không đặt vấn đề là tin hay nghi. Thiền về các căn, có nghĩa là về những gì được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được tư lường. Nơi sáu căn, các sư phải thấy vô thường, khổ, vô ngã. Trong khi các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam nói rằng phải nhìn vào khối nghi, tức là nhìn vào cái được tư lường, tức là nhìn vào tự tâm, sẽ thấy trận gió vô thường đang cuốn trôi tất cả các pháp trong tâm.

Câu chuyện trong Pháp Cú tóm tắt như sau. Khi cư trú tại tu viện Jetavana, Đức Phật đã nói Bài kệ 97 của Kinh Pháp Cú. Ba mươi nhà sư từ một ngôi làng đã đến tu viện Jetavana để tỏ lòng tôn kính Đức Phật. Đức Phật biết rằng thời điểm đã chín muồi để các vị sư này đạt được quả vị A-la-hán. Vì vậy, ngài đã cho gọi Sariputta đến, và trước sự hiện diện của những vị sư đó, Đức Phật đã hỏi, "Này Sariputta, con có chấp nhận sự thật rằng bằng cách thiền định về các căn, người ta có thể chứng ngộ Niết bàn không?"

Ngài Sariputta trả lời, "Bạch Thế Tôn, trong việc chứng ngộ Niết bàn bằng cách thiền định về các căn, không phải là con chấp nhận điều đó vì con có đức tin vào Ngài; chỉ những người chưa đích thân chứng ngộ mới chấp nhận sự kiện đó từ lời người khác."

Câu trả lời của Sariputta không được 30 nhà sư hiểu đúng. Họ nghĩ rằng, "Sariputta vẫn chưa từ bỏ tà kiến. Ngay cả bây giờ, Sariputta vẫn chưa có đức tin vào Đức Phật."

Sau đó, Đức Phật giải thích cho họ ý nghĩa thực sự của câu trả lời của Sariputta. "Các sư, câu trả lời của Sariputta chỉ đơn giản như thế này; Sariputta chấp nhận sự thật rằng Niết bàn được chứng ngộ thông qua thiền định về các căn, nhưng sự chấp nhận của Sariputta là do sự chứng ngộ của chính Sariputta chứ không chỉ vì ta đã nói điều đó hoặc ai đó đã nói điều đó. Sariputta có đức tin vào ta; Sariputta cũng có niềm tin vào hậu quả của những việc làm tốt và xấu."

Sau đó, Đức Phật nói bằng bài kệ như sau, theo tổng hợp các bản dịch của Thầy Minh Châu, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Ānandajoti, Bhante Suddhāso:

Bài kệ 97Người đã vượt qua đức tin, đã chứng ngộ Vô Vi, đã cắt đứt mọi ràng buộc tái sinh, đã loại bỏ các hậu quả của những việc làm tốt và xấu, đã rời bỏ ham muốn, chắc chắn là người tối thượng.

Khi Đức Phật nói xong, tất cả các vị sư đó đã đạt được quả vị A la hán. Như thế, Đức Phật nói rằng người tu phải vượt qua đức tin đơn giản, và phải  chứng ngộ pháp Vô Vi.

Chữ Vô Vi này có nghĩa là xa lìa các duyên, và là không hề được tạo ra. Bạn có thể tới rất gần với Vô Vi, nếu bạn nhìn vào tâm bạn, và liên tục nhìn thấy cái tâm biết cái-không-biết. Nghĩa là, bạn biết rằng bạn đang nhìn vào cái tâm của sự không biết. Bởi vì như thế là tâm bạn là bầu trời rỗng rang, không hạn cuộc, không rơi vào bất kỳ kết luận nào. Lúc đó, bạn sẽ không rơi vào một kết luận nào, không mơ tưởng nào, không ước muốn nào.

Trong cái tâm không biết này, không có tham sân si. Bạn liên tục nhìn vào tâm không biết này, bạn thấy sẽ không có niệm nào khởi lên, vì nơi đây là dòng sông vô thường trôi chảy, cuốn sạch hết những gì khởi lên. Nhiều vị thiền sư gọi cái thấy vô thường trôi chảy trong tâm đó là nghi tâm. Chữ “nghi” là một cách mô tả không chính xác, chỉ nên nói rằng tâm này là tâm đã xa lìa mọi kết luận.

Ngay khi bạn thấy rằng “không hề có cái tôi nào đang tin hay đang nghi” thì lúc đó bạn sẽ thấy không có cái “tôi là” và cũng không có cái “tôi không là”... Lúc đó, bạn không thấy trong tâm hiện lên cả tín tâm và nghi tâm.  Bạn xa lìa cả cái có và không, chỉ bằng cách nhìn vào tâm lúc đó. Đó là tại sao 30 vị sư kia sau khi nghe Đức Phật nói, họ thấy rằng họ xa lìa niềm tin, họ ngó vào tâm thấy cái Vô Vi, cái không hề do bất cứ gì kiến tạo lên. Đó là tâm giải thoát.

Ngài Sariputta nói hãy xa lìa niềm tin để thiền định về các căn, nơi đó sẽ có pháp vô vi được nhận ra. Tương tự, các thiền sư Trung Hoa và Việt Nam cũng nói rằng hãy xa lìa niềm tin, mà chúng ta đôi khi gọi là hãy nghi, nhưng chính xác là hãy dùng chữ “thấy tâm không biết” thì sẽ có pháp vô vi nhận ra. Trong cái tâm này, không gọi là tin và cũng không gọi là nghi. Tất cả ngôn ngữ đều tịch lặng, vì chữ không còn hiện ra trong tâm này nữa.

.... o ....

Doubting Buddha and Believing Buddha Are Failing

Written and translated by Nguyên Giác

 
This article aims to compare the Dhammapada with Zen Buddhism. It will explore the idea that during meditation, both belief in the Buddha and doubt about the Buddha can lead practitioners astray, resulting in unwholesome dharmas and an inability to perceive the Dharma of Unconditioned.

To enter Buddhism, one must first believe in and take refuge in the Buddha, the Dharma, and the Sangha. Practitioners of the Buddha's teachings must embrace the Four Noble Truths: Suffering, Origin, Extinction, and the Path. In the course of practice, individuals must cultivate faith, morality, knowledge, generosity, and wisdom to eliminate unwholesome dharmas. Therefore, those who lack genuine faith in the Buddha will find it challenging to embark on the long journey toward liberation.

Faith is the first step on the path to practicing the Dharma. Why do Zen masters claim that believing in the Buddha can be detrimental? Some even assert that if you encounter the Buddha, you should kill the Buddha. However, it is essential to recognize that doubting the Buddha is akin to closing off your own entrance and violating the three refuges. In Zen, many masters emphasize that practitioners must navigate through the door of doubt to truly understand and enter the path, as profound doubt can lead to profound enlightenment. Why is this the case? The challenge lies in the fact that language often fails to convey the necessary states of mind. When Zen masters advocate for doubt, many of them have already cultivated a deep faith in the Buddha and have maintained a balance of both faith and doubt in their minds for decades.

It's crucial to realize that the doubt a Chinese or Vietnamese Zen master mentioned wasn't just about the Buddha himself. The Dhammapada, specifically story 97, records thirty monks claiming Sariputta harbored doubts about the Buddha and lacked sufficient faith in him. This assertion is particularly striking considering that Sariputta had already attained liberation and was one of the Buddha's two foremost disciples.

We examine this case to illustrate that for a practitioner, even during meditation, harboring faith in the Buddha or experiencing doubts about the Buddha constitutes a failure. The practitioner's mind during meditation must be free from any reasoning processes that could lead to conclusions, whether affirming or negating. Only a master of reasoning would engage in such processes to arrive at the conclusion that one must either believe in or doubt the Buddha. A true Zen master transcends all conclusions and, therefore, remains uninvolved in faith or doubt regarding the Buddha.

Simply put, when Venerable Sariputta instructed the other thirty monks to meditate on the senses, he did not address the concepts of belief or doubt. Meditating on the senses involves focusing on what is seen, heard, smelled, tasted, touched, and thought about. Through the six senses, the monks must recognize impermanence, suffering, and non-self. While Chinese and Vietnamese Zen masters emphasize the importance of examining the mass of doubt—essentially, reflecting on one's thoughts and the mind itself—this introspection reveals the winds of impermanence sweeping away all the dharmas within the mind.

The story in the Dhammapada is summarized as follows: While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke Verse 97 of the Dhammapada. Thirty monks from a nearby village came to Jetavana to pay homage to the Buddha. The Buddha recognized that the time was ripe for these monks to attain arahantship. Therefore, he summoned Sariputta, and in the presence of those monks, the Buddha asked, "Sariputta, do you accept the truth that by meditating on the senses, one can realize Nibbana?"

Venerable Sariputta replied, "Venerable, sir, in realizing Nibbana through the meditation on the senses, I do not accept it solely based on my faith in you; rather, it is only those who have not personally experienced it who accept that truth from the words of others."

Sariputta's response was misunderstood by the thirty monks. They believed, "Sariputta has not yet relinquished his erroneous views. Even now, Sariputta still lacks faith in the Buddha."

The Buddha then explained to them the true meaning of Sariputta's response. "Monks, Sariputta's answer is simply this: he acknowledges that Nibbana is attained through meditation on the senses. However, Sariputta's acceptance stems from his own realization, not merely because I said so or someone else did. Sariputta has faith in me, and he also believes in the consequences of good and bad deeds."

Then the Buddha spoke in verse as follows, according to the translations by Venerable Minh Châu, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Ānandajoti, and Bhante Suddhāso.

Verse 97: He who is not credulous, who has realized the Unconditioned (Nibbana), who has cut off the links of the round of rebirths, who has destroyed all consequences of good and bad deeds, who has discarded all craving, is indeed the noblest of all men (i.e., an arahat). (Translated by Daw Mya Tin)

After listening to the Buddha, all the monks attained the fruit of Arhatship. Therefore, the Buddha emphasized that practitioners must transcend mere faith and truly understand the Dharma of Unconditioned.

The term Unconditioned -- or Unmade or Uncreated -- refers to a state that is free from conditions and is not the result of creation. You can approach Unconditioned by examining your mind and consistently observing the awareness of unknowing. In this state, you recognize that you are contemplating the thought of not knowing.  Consequently, your mind becomes like an empty sky—limitless and free from any conclusions. In this way, you will avoid falling into conclusions, dreams, or desires.

In a mind that embraces not-knowing, there is no greed, anger, or delusion. When you continuously observe this state of not knowing, you will notice that no thoughts arise, for it is akin to a flowing river of impermanence, washing away everything that comes into being. Many Zen masters refer to this fluid perspective of impermanence in the mind as the mind of doubt. However, the term “doubt” is a misleading characterization; it would be more accurate to describe this mind as one that has relinquished all conclusions.

As soon as you see that there is no self that is believing or doubting, then you will see that there is no “I am” and there is no “I am not." At that moment, you will transcend the duality of belief and doubt. By examining the mind at that time, you will find yourself distanced from both existence and non-existence. After listening to the Buddha, the thirty monks discovered their detachment from belief, turned their attention inward, and perceived the Unconditioned, which is not created by anything. This realization leads to a liberated mind.

Venerable Sariputta instructed the monks to relinquish faith and meditate on the senses, where the Unconditioned can be realized. Similarly, Chinese and Vietnamese Zen masters have also advised abandoning faith, which we sometimes refer to as doubt. However, to be precise, it is about perceiving the mind of not knowing; in doing so, the Unconditioned will be realized. In this state of mind, there is neither faith nor doubt. All language becomes silent, as words no longer manifest in this mind.

.... o ....
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
MEXICO CITY – Chủ Nhật (2/6), sau khi các cuộc bỏ phiếu kết thúc, đảng cầm quyền và báo chí Mexico đồng loạt loan tin ứng viên đắc cử Tổng thống là Claudia Sheinbaum; bà sẽ trở thành nữ Tổng thống đầu tiên của quốc gia này, theo Reuters.
Pháp sẽ sớm gửi quân tới Ukraine để huấn luyện binh sĩ Ukraine và dự kiến ​​sẽ công bố kế hoạch này vào tuần tới bất chấp nguy cơ khiêu khích Nga, theo Reuters. Các nguồn tin ngoại giao nói với Reuters rằng kế hoạch ban đầu là cử vài chục huấn luyện viên đến đánh giá nhiệm vụ, sau đó hàng trăm quân Pháp sẽ được cử tới.
Bậc đại sĩ thời nào cũng có; xuất hiện đúng thời đúng cảnh. Nơi nào cần và đúng duyên, họ xuất hiện. Có khi hiện thân làm bậc lãnh đạo cao tột ai cũng biết, có khi hiện thân làm người quê mùa vô danh không ai để ý. Dù trong hoàn cảnh hay địa vị nào, sự có mặt của họ đều được khởi động từ lòng bi mẫn, yêu thương con người và cuộc đời. Những bậc đại sĩ như thế, không phải từ trời cao giáng hiện mà xuất hiện từ lòng đất (1).
Trong Bát Chánh Đạo thì Phật tử và tu sĩ phải biết thế nào là Chánh Mệnh, tức yêu mến thân mệnh này, tránh xa hai cực đoan mê đắm nhục dục và hành xác. Không thể nào có được đầu óc minh mẫn trong một cơ thể bệnh tật, yếu đuối. Khi sắp chết, vì thân xác vô cùng yếu đuối cho nên con người lúc đó thường mê sảng và lú lẫn, nhiểu khi chỉ thều thào, nói không ra lời. Vậy thì Trung Đạo là con đường đúng đắn nhất. Hãy tin vào lời Đức Phật là bậc Toàn Thiện, Toàn Trí và Toàn Giác.
Một trong những lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ thường được đời sau nhắc tới là hãy phản quan tự kỷ. Đó là pháp yếu Thiền Tông. Nghĩa là, nhìn lại chính mình. Câu hỏi chúng ta nêu ra nơi đây là, phản quan tự kỷ thế nào?
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Lloyd Austin hôm thứ Bảy cho biết Hoa Kỳ “chỉ an toàn nếu châu Á an ninh” và “cam kết sâu sắc với Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”. Austin nhận xét tại Đối thoại Shangri-La ở Singapore: “Hoa Kỳ và khu vực này sẽ an toàn và thịnh vượng hơn khi chúng ta hợp tác cùng nhau”.
Ban tranh cử của Trump đã thu về khoảng 35 triệu đô la sau khi Trump bị kết tội 34 trọng tội trong một phiên tòa xét xử Trump ngụy tạo hồ sơ kế toán để che giấu các khoản tiền bịt miệng nữ nhơn ở New York, và ban tranh cử của ông lập luận rằng phán quyết này đã tăng cường sự ủng hộ của các nhà tài trợ cấp cơ sở.
Cuối tuần trước, thống đốc bang Louisiana đã ký thành luật một dự luật đánh dấu lần đầu tiên trong cuộc chiến về quyền sinh sản ở Mỹ, một tiểu bang Hoa Kỳ đã phân loại thuốc mifepristone và misoprostol, những loại thuốc thường được sử dụng phá thai vào danh mục Tố chất schedule 4” (Schedule IV) – danh mục các chất có thể bị lạm dụng và gây nghiện, cùng nhóm này có các loại thuốc như Ambien, Valium và Xanax, các Chất Phải Kiểm Soát Đặc Biệt (Controlled Substances). Sở hữu ma túy mà không có đơn thuốc hợp lệ sẽ là tội hình sự có thể phải ngồi tù tới 10 năm. Các thuốc này ở Louisiana hiện được xếp cùng loại với các loại thuốc phiện, như opioid và Xanax—các loại thuốc được cho là có nguy cơ bị lạm dụng—mặc dù cộng đồng y tế và FDA coi mifepristone và misoprostol là an toàn. Theo luật này, việc sở hữu thuốc phá thai mà không có toa thuốc ở Louisiana sẽ là hành vi phạm pháp, có thể bị phạt tù hình sự và phạt tiền lên đến hàng ngàn Mỹ Kim.
Sinh ra với mẹ là người Canada và cha là người Mỹ, James Klass đã sống ở Hoa Kỳ kể từ khi ông di dân từ Canada khi mới hai tuổi. Hiện nay ông đã 66 tuổi và ông chưa bao giờ gặp bất kỳ vấn đề gì về quyền công dân Hoa Kỳ cho đến khi nộp đơn xin trợ cấp An sinh xã hội. Bây giờ ông cảm thấy rằng chính phủ Hoa Kỳ đang ăn cướp của ông. Klass luôn luôn đóng thuế An sinh xã hội, nhưng khi nộp đơn xin trợ cấp hưu trí, ông được thông báo rằng mình không phải là công dân Hoa Kỳ.
Khi mở vòi nước hứng nước để uống hoặc đánh răng, rửa mặt, quý vị thường chỉ nghĩ đơn giản là mình đang lấy nước và chẳng mấy khi quan tâm đến những ‘thứ’ có trong nước. Chất lượng nước có thể thay đổi tùy thuộc vào nơi quý vị đang sống và liệu khu vực đó có hệ thống lọc kim loại làm mềm dung dịch nước cứng đi (water-softening system) hay không. Nếu quý vị sống ở một khu vực có ‘nước cứng’ (hard water) và không có hệ thống lọc làm mềm nước cứng, nguồn nước mà quý vị sử dụng có thể chứa nhiều tạp chất như canxi (calci) và ma-giê (magnesium). Và sự hiện diện của các tạp chất này có thể ảnh hưởng đến việc làm sạch nước và giữ cho nước không bị ô nhiễm bởi các chất độc hại như chì (lead).
Theo bản tin của NPR News, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra lời xin lỗi vì sử dụng thuật ngữ xúc phạm đề cập đến người đồng tính nam trong một cuộc thảo luận kín giữa các giám mục hồi đầu tháng này. Truyền thông Ý trong tuần qua đã đưa tin rằng nhiều người có mặt tại cuộc họp kín đã tiết lộ rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong cuộc hội thoại về vấn đề đồng tính đã nói rằng đã có quá nhiều “frociaggine” trong các chủng viện. Frociaggine là một thuật ngữ tiếng lóng mang tính xúc phạm cao trong tiếng Ý để chỉ những người đồng tính nam và văn hóa đồng tính nam.
WASHINGTON – Hôm thứ Năm (30/5), cơ quan tình báo của Ngũ Giác Đài cho biết, sau khi phân tích hình ảnh mảnh vỡ của xác hỏa tiễn, có thể kết luận rằng Nga đã sử dụng hỏa tiễn của Bắc Hàn trong cuộc chiến ở Ukraine, theo Reuters.
WASHINGTON/PRAGUE – Hôm thứ Năm (30/5), bốn viên chức ẩn danh của Hoa Kỳ cho biết, Tổng thống Joe Biden đã âm thầm nới lỏng các hạn chế, cho phép Kyiv sử dụng các vũ khí do Hoa Kỳ viện trợ để tấn công các mục tiêu quân sự bên trong lãnh thổ nước Nga, vốn đang tiếp tay cho cuộc tấn công vào thành phố Kharkiv ở đông bắc Ukraine, theo Reuters.
HOA KỲ - Hôm thứ Năm (30/5), Donald Trump, cựu Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên bị kết án hình sự trong trong vụ cố ý gian lận hồ sơ kinh doanh, liên quan đến khoản thanh toán tiền bịt miệng ngôi sao khiêu dâm Stormy Daniels. Trump vẫn sẽ được tự do trong khi chờ tuyên án, và có nhiều khả năng sẽ tránh được hình phạt tù giam, thay vào đó sẽ là các hình phạt khác, chẳng hạn như án treo, quản thúc tại gia, hoặc phạt tiền, theo Reuters.
Donald J. Trump, cựu tổng thống và ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng hòa năm 2024, đã bị kết án về 34 tội nghiêm trọng trong vụ cố ý gian lận hồ sơ kinh doanh trong vụ án xuất phát từ khoản thanh toán tiền bịt miệng ngôi sao khiêu dâm Stormy Daniels.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.