Hôm nay,  

Song ngữ: Nghi Phật, Tin Phật Đều Hỏng // Doubting Buddha and Believing Buddha Are Failing

06/01/202508:53:00(Xem: 3517)
blank
 
Nghi Phật, Tin Phật Đều Hỏng

Nguyên Giác

Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông. Để nói lên một phương pháp của Thiền rằng, trong khi thiền tập, hễ tin Phật hay nghi Phật đều sẽ hỏng, đều rơi vào bất thiện pháp, sẽ không thấy được pháp Vô Vi.

Muốn vào đạo Phật, trước tiên phải tin và phải quy y Phật, Pháp, và Tăng. Người tu theo lời Phật dạy phải tin vào Tứ Thánh Đế, tức là  Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong khi tu tập, người tu phải  thành tựu tín, giới, văn, thí, huệ mới có thể đoạn trừ bất thiện pháp. Như vậy, người không có lòng tin chắc thật vào Đức Phật sẽ không đi được con đường dài như thế để thành tựu giải thoát.

Lòng tin là cửa đầu tiên để vào đạo, để thực hành pháp. Tại sao có thiền sư nào nói rằng tin Phật sẽ hỏng? Thậm chí có vị còn nói là gặp Phật thì hãy giết Phật. Nhưng cần phải thấy rõ, hễ nghi Phật là tự mình cắt đứt lối vào, là vi phạm ba lời quy y. Trong Thiền Tông, nhiều vị thầy nói rằng người tu phải từ cửa nghi để hiểu đạo, và để vào đạo. Bởi vì đại nghi mới đại ngộ. Sao lại có chuyện như thế? Vấn đề là ngôn ngữ không mô tả được các trạng thái tâm thức cần thiết. Bởi vì, khi các thiền sư nói cần sự nghi ngờ, thì nhiều thiền sư đó cũng đã có lòng tin sâu dày nơi Đức Phật và có nhiều thập niên giữ khối tin và cả nghi trong tâm.

Nên thấy rằng, cái nghi mà một thiền sư Trung Hoa hay Việt Nam nói, không phải là sự nghi ngờ đơn giản về Đức Phật. Chúng ta có thể dẫn Kinh Pháp Cú, tích truyện 97 ra để ghi nhận rằng, trong tích này, 30 vị sư đã nói rằng ngài Sariputta có sự nghi ngờ Đức Phật, không đủ lòng tin Đức Phật. Điều này xảy ra trong khi ngài Sariputta đã thành tựu giải thoát, và là một trong hai đại đệ tử hàng đầu của Đức Phật.

Chúng ta khảo sát trường hợp này, để sẽ thấy rằng đối với người tu thiền, thì ngay trong khi thiền tập, hễ khởi lòng tin Phật hay khởi lòng nghi Phật đều hỏng. Bởi vì tâm của người tu lúc thiền tập phải lìa bất kỳ tiến trình lý luận nào có thể dẫn tới một kết luận rằng phải thế này hay phải thế kia. Chỉ có luận sư mới đi theo tiến trình lý luận để tới kết luận rằng phải tin Phật hay nghi Phật. Thiền sư chân thực sẽ không rơi vào kết luận nào hết, do vậy không dính vào tin Phật hay nghi Phật.

Chỉ đơn giản là, khi ngài Sariputta hướng dẫn 30 vị sư kia thiền tập về các căn, ngài không đặt vấn đề là tin hay nghi. Thiền về các căn, có nghĩa là về những gì được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được tư lường. Nơi sáu căn, các sư phải thấy vô thường, khổ, vô ngã. Trong khi các Thiền sư Trung Hoa và Việt Nam nói rằng phải nhìn vào khối nghi, tức là nhìn vào cái được tư lường, tức là nhìn vào tự tâm, sẽ thấy trận gió vô thường đang cuốn trôi tất cả các pháp trong tâm.

Câu chuyện trong Pháp Cú tóm tắt như sau. Khi cư trú tại tu viện Jetavana, Đức Phật đã nói Bài kệ 97 của Kinh Pháp Cú. Ba mươi nhà sư từ một ngôi làng đã đến tu viện Jetavana để tỏ lòng tôn kính Đức Phật. Đức Phật biết rằng thời điểm đã chín muồi để các vị sư này đạt được quả vị A-la-hán. Vì vậy, ngài đã cho gọi Sariputta đến, và trước sự hiện diện của những vị sư đó, Đức Phật đã hỏi, "Này Sariputta, con có chấp nhận sự thật rằng bằng cách thiền định về các căn, người ta có thể chứng ngộ Niết bàn không?"

Ngài Sariputta trả lời, "Bạch Thế Tôn, trong việc chứng ngộ Niết bàn bằng cách thiền định về các căn, không phải là con chấp nhận điều đó vì con có đức tin vào Ngài; chỉ những người chưa đích thân chứng ngộ mới chấp nhận sự kiện đó từ lời người khác."

Câu trả lời của Sariputta không được 30 nhà sư hiểu đúng. Họ nghĩ rằng, "Sariputta vẫn chưa từ bỏ tà kiến. Ngay cả bây giờ, Sariputta vẫn chưa có đức tin vào Đức Phật."

Sau đó, Đức Phật giải thích cho họ ý nghĩa thực sự của câu trả lời của Sariputta. "Các sư, câu trả lời của Sariputta chỉ đơn giản như thế này; Sariputta chấp nhận sự thật rằng Niết bàn được chứng ngộ thông qua thiền định về các căn, nhưng sự chấp nhận của Sariputta là do sự chứng ngộ của chính Sariputta chứ không chỉ vì ta đã nói điều đó hoặc ai đó đã nói điều đó. Sariputta có đức tin vào ta; Sariputta cũng có niềm tin vào hậu quả của những việc làm tốt và xấu."

Sau đó, Đức Phật nói bằng bài kệ như sau, theo tổng hợp các bản dịch của Thầy Minh Châu, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Ānandajoti, Bhante Suddhāso:

Bài kệ 97Người đã vượt qua đức tin, đã chứng ngộ Vô Vi, đã cắt đứt mọi ràng buộc tái sinh, đã loại bỏ các hậu quả của những việc làm tốt và xấu, đã rời bỏ ham muốn, chắc chắn là người tối thượng.

Khi Đức Phật nói xong, tất cả các vị sư đó đã đạt được quả vị A la hán. Như thế, Đức Phật nói rằng người tu phải vượt qua đức tin đơn giản, và phải  chứng ngộ pháp Vô Vi.

Chữ Vô Vi này có nghĩa là xa lìa các duyên, và là không hề được tạo ra. Bạn có thể tới rất gần với Vô Vi, nếu bạn nhìn vào tâm bạn, và liên tục nhìn thấy cái tâm biết cái-không-biết. Nghĩa là, bạn biết rằng bạn đang nhìn vào cái tâm của sự không biết. Bởi vì như thế là tâm bạn là bầu trời rỗng rang, không hạn cuộc, không rơi vào bất kỳ kết luận nào. Lúc đó, bạn sẽ không rơi vào một kết luận nào, không mơ tưởng nào, không ước muốn nào.

Trong cái tâm không biết này, không có tham sân si. Bạn liên tục nhìn vào tâm không biết này, bạn thấy sẽ không có niệm nào khởi lên, vì nơi đây là dòng sông vô thường trôi chảy, cuốn sạch hết những gì khởi lên. Nhiều vị thiền sư gọi cái thấy vô thường trôi chảy trong tâm đó là nghi tâm. Chữ “nghi” là một cách mô tả không chính xác, chỉ nên nói rằng tâm này là tâm đã xa lìa mọi kết luận.

Ngay khi bạn thấy rằng “không hề có cái tôi nào đang tin hay đang nghi” thì lúc đó bạn sẽ thấy không có cái “tôi là” và cũng không có cái “tôi không là”... Lúc đó, bạn không thấy trong tâm hiện lên cả tín tâm và nghi tâm.  Bạn xa lìa cả cái có và không, chỉ bằng cách nhìn vào tâm lúc đó. Đó là tại sao 30 vị sư kia sau khi nghe Đức Phật nói, họ thấy rằng họ xa lìa niềm tin, họ ngó vào tâm thấy cái Vô Vi, cái không hề do bất cứ gì kiến tạo lên. Đó là tâm giải thoát.

Ngài Sariputta nói hãy xa lìa niềm tin để thiền định về các căn, nơi đó sẽ có pháp vô vi được nhận ra. Tương tự, các thiền sư Trung Hoa và Việt Nam cũng nói rằng hãy xa lìa niềm tin, mà chúng ta đôi khi gọi là hãy nghi, nhưng chính xác là hãy dùng chữ “thấy tâm không biết” thì sẽ có pháp vô vi nhận ra. Trong cái tâm này, không gọi là tin và cũng không gọi là nghi. Tất cả ngôn ngữ đều tịch lặng, vì chữ không còn hiện ra trong tâm này nữa.

.... o ....

Doubting Buddha and Believing Buddha Are Failing

Written and translated by Nguyên Giác

 
This article aims to compare the Dhammapada with Zen Buddhism. It will explore the idea that during meditation, both belief in the Buddha and doubt about the Buddha can lead practitioners astray, resulting in unwholesome dharmas and an inability to perceive the Dharma of Unconditioned.

To enter Buddhism, one must first believe in and take refuge in the Buddha, the Dharma, and the Sangha. Practitioners of the Buddha's teachings must embrace the Four Noble Truths: Suffering, Origin, Extinction, and the Path. In the course of practice, individuals must cultivate faith, morality, knowledge, generosity, and wisdom to eliminate unwholesome dharmas. Therefore, those who lack genuine faith in the Buddha will find it challenging to embark on the long journey toward liberation.

Faith is the first step on the path to practicing the Dharma. Why do Zen masters claim that believing in the Buddha can be detrimental? Some even assert that if you encounter the Buddha, you should kill the Buddha. However, it is essential to recognize that doubting the Buddha is akin to closing off your own entrance and violating the three refuges. In Zen, many masters emphasize that practitioners must navigate through the door of doubt to truly understand and enter the path, as profound doubt can lead to profound enlightenment. Why is this the case? The challenge lies in the fact that language often fails to convey the necessary states of mind. When Zen masters advocate for doubt, many of them have already cultivated a deep faith in the Buddha and have maintained a balance of both faith and doubt in their minds for decades.

It's crucial to realize that the doubt a Chinese or Vietnamese Zen master mentioned wasn't just about the Buddha himself. The Dhammapada, specifically story 97, records thirty monks claiming Sariputta harbored doubts about the Buddha and lacked sufficient faith in him. This assertion is particularly striking considering that Sariputta had already attained liberation and was one of the Buddha's two foremost disciples.

We examine this case to illustrate that for a practitioner, even during meditation, harboring faith in the Buddha or experiencing doubts about the Buddha constitutes a failure. The practitioner's mind during meditation must be free from any reasoning processes that could lead to conclusions, whether affirming or negating. Only a master of reasoning would engage in such processes to arrive at the conclusion that one must either believe in or doubt the Buddha. A true Zen master transcends all conclusions and, therefore, remains uninvolved in faith or doubt regarding the Buddha.

Simply put, when Venerable Sariputta instructed the other thirty monks to meditate on the senses, he did not address the concepts of belief or doubt. Meditating on the senses involves focusing on what is seen, heard, smelled, tasted, touched, and thought about. Through the six senses, the monks must recognize impermanence, suffering, and non-self. While Chinese and Vietnamese Zen masters emphasize the importance of examining the mass of doubt—essentially, reflecting on one's thoughts and the mind itself—this introspection reveals the winds of impermanence sweeping away all the dharmas within the mind.

The story in the Dhammapada is summarized as follows: While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke Verse 97 of the Dhammapada. Thirty monks from a nearby village came to Jetavana to pay homage to the Buddha. The Buddha recognized that the time was ripe for these monks to attain arahantship. Therefore, he summoned Sariputta, and in the presence of those monks, the Buddha asked, "Sariputta, do you accept the truth that by meditating on the senses, one can realize Nibbana?"

Venerable Sariputta replied, "Venerable, sir, in realizing Nibbana through the meditation on the senses, I do not accept it solely based on my faith in you; rather, it is only those who have not personally experienced it who accept that truth from the words of others."

Sariputta's response was misunderstood by the thirty monks. They believed, "Sariputta has not yet relinquished his erroneous views. Even now, Sariputta still lacks faith in the Buddha."

The Buddha then explained to them the true meaning of Sariputta's response. "Monks, Sariputta's answer is simply this: he acknowledges that Nibbana is attained through meditation on the senses. However, Sariputta's acceptance stems from his own realization, not merely because I said so or someone else did. Sariputta has faith in me, and he also believes in the consequences of good and bad deeds."

Then the Buddha spoke in verse as follows, according to the translations by Venerable Minh Châu, Bhikkhu Sujato, Bhikkhu Ānandajoti, and Bhante Suddhāso.

Verse 97: He who is not credulous, who has realized the Unconditioned (Nibbana), who has cut off the links of the round of rebirths, who has destroyed all consequences of good and bad deeds, who has discarded all craving, is indeed the noblest of all men (i.e., an arahat). (Translated by Daw Mya Tin)

After listening to the Buddha, all the monks attained the fruit of Arhatship. Therefore, the Buddha emphasized that practitioners must transcend mere faith and truly understand the Dharma of Unconditioned.

The term Unconditioned -- or Unmade or Uncreated -- refers to a state that is free from conditions and is not the result of creation. You can approach Unconditioned by examining your mind and consistently observing the awareness of unknowing. In this state, you recognize that you are contemplating the thought of not knowing.  Consequently, your mind becomes like an empty sky—limitless and free from any conclusions. In this way, you will avoid falling into conclusions, dreams, or desires.

In a mind that embraces not-knowing, there is no greed, anger, or delusion. When you continuously observe this state of not knowing, you will notice that no thoughts arise, for it is akin to a flowing river of impermanence, washing away everything that comes into being. Many Zen masters refer to this fluid perspective of impermanence in the mind as the mind of doubt. However, the term “doubt” is a misleading characterization; it would be more accurate to describe this mind as one that has relinquished all conclusions.

As soon as you see that there is no self that is believing or doubting, then you will see that there is no “I am” and there is no “I am not." At that moment, you will transcend the duality of belief and doubt. By examining the mind at that time, you will find yourself distanced from both existence and non-existence. After listening to the Buddha, the thirty monks discovered their detachment from belief, turned their attention inward, and perceived the Unconditioned, which is not created by anything. This realization leads to a liberated mind.

Venerable Sariputta instructed the monks to relinquish faith and meditate on the senses, where the Unconditioned can be realized. Similarly, Chinese and Vietnamese Zen masters have also advised abandoning faith, which we sometimes refer to as doubt. However, to be precise, it is about perceiving the mind of not knowing; in doing so, the Unconditioned will be realized. In this state of mind, there is neither faith nor doubt. All language becomes silent, as words no longer manifest in this mind.

.... o ....
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có nhiều bằng chứng Lãnh đạo đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam đã ngủ mê trong vòng tay người Tầu từ đất liền ra Biển Đông. Trước hết, hãy nói về chuyện đất liền. Từ năm 2010, các Công ty gốc Tâu từ Trung Hoa, Hồng Kông và Đài Loan đã đồng loạt nhảy vào Việt Nam thuê đất đầu nguồn, dọc biên giới Việt-Trung, Việt-Lào và Việt-Kampuchea để trồng cây nguyên liệu. Các dự án trồng rừng được chính quyền địa phương cho thuê dài hạn 50 năm, đa số nằm ở vị trí chiến lược quốc phòng, hay còn được gọi là “nhạy cảm”.
Kính chào quý Phụ Huynh, quý Thầy Cô, và quý Huynh Trưởng của các hội đoàn, Trong khi đại dich Covid-19 vẫn còn đang ảnh hưởng rất nhiều đến sinh hoạt hàng ngày của chúng ta, Ước Mơ Việt xin giới thiệu chương trình học tiếng Việt qua bài hát và sách song ngữ, với chủ đề: Uống Nước Nhớ Nguồn. Đây là một sinh hoạt lành mạnh và bổ ích cho mọi gia đình trong mùa hè sắp tới: cha mẹ, con cái, anh chị em sẽ cùng nhau ca hát, đọc truyện để chuẩn bị cho cuộc thi Ước Mơ Việt kỳ II sẽ được chính thức bắt đầu ngày 1 tháng 6, 2020. Chương trình kỳ này sẽ được mở rộng đến các gia đỉnh Việt Nam tại hải ngoại, không chỉ riêng trong nước Mỹ. Xin quý vị giúp phổ biến.
Thư Tư, ngày 27 tháng Năm, chỉ hơn bốn tháng sau khi chính quyền Hoa Kỳ xác nhận trường hợp đầu tiên được biết đến, hơn 100.000 người nhiễm coronavirus đã chết ở Hoa Kỳ, theo một thống kê của New York Times. Số người chết cao hơn nhiều so với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Con số này vượt quá số người thiệt mạng trong cuộc chiến của quân đội Hoa Kỳ trong mọi cuộc xung đột kể từ Chiến tranh Triều Tiên. Nó bằng với với số người thiệt mạng tại Hoa Kỳ trong đại dịch cúm năm 1968 và nó đang tiến gần tới con số 116.000 người thiệt mạng trong một đợt dịch cúm khác một thập kỷ trước đó. Đại dịch đang trên đường trở thành thảm họa quôc gia về y tế công cộng nghiêm trọng nhất kể từ đại dịch cúm năm 1918, trong đó có khoảng 675.000 người Mỹ tử vong. Khi Hoa Kỳ tiến gần sát cột mốc tàn khốc, Tổng thống Trump đã bay tới Florida vào thứ Tư với hy vọng theo dõi vụ phóng phi hành gia đầu tiên của NASA lên quỹ đạo từ Hoa Kỳ trong gần một thập kỷ. Nhưng vì thời tiết đe dọa đã khiến vụ phó
Tổng thống Donald Trump hôm nay đã đe dọa đóng cửa các cơ quan truyền thông xã hội, ông cho rằng họ đã kiểm duyệt tiếng nói bảo thủ sau khi Twitter hôm thứ ba đã gài thông điệp kiểm tra tin thực hư vào một số tin nhắn của ông.
Los Angeles - Từ nhiều thế hệ, hàng triệu người Mỹ gốc Trung Đông và Bắc Phi – MENA (Middle East and North Africa) đã mặc nhiên trở nên người vô hình vì Cục Thống Kê Dân Số từ chối lời yêu cầu có nhóm dân tộc riêng cho họ. “Theo luật pháp, tại Hoa Kỳ, tôi được phân loại là người da trắng,” Tiến Sĩ Hamoud Salhi nói. Ông là phó viện trưởng đaị học College of Natural and Behavorial Sciences, CSU-Dominguez Hills. “Tôi sanh ra ở Algeria, một phần của Phi Châu. Về mặt kỹ thuật, tôi có thể khai mình là người Mỹ gốc Phi Châu, nhưng tôi không thể.” Người Mỹ gốc Palestine Loubna Qutami, hậu tiến sĩ học tại Đại Học Berkeley, chuyên gia nghiên cứu dân tộc học, nói rằng vì MENA không có nhóm dân tộc riêng, thành thử nhóm này nằm trong nhóm người da trắng.
Học sinh, sinh viên Việt Nam thường được tiếng chuyên cần và học giỏi nên thầy cô và học sinh gia trắng thường gán cho các cháu một số khuôn mẫu (Stéréotypes). Khi bỏ nước ra đi tìm tự do, tất cả bậc cha mẹ Việt Nam đều nghĩ đến tương lai của các đứa con mình. Các con cần phải cố gắng học, học và học… Sự thành đạt của con em chúng ta trong học vấn được xem như là sự thành công và niềm hảnh diện chung của cha mẹ Viêt Nam trên miền đất tự do.
Vài tiếng đồng hồ sau, sau khi Joshua Wong (Hoàng Chi Phong 黃之鋒) ra tù, – vào hôm 17 tháng 6 năm 2019 – cô giáo Thảo Dân đã gửi đến cộng đồng mạng một stt ngắn: “Con Nhà Người Ta.” Xin được ghi lại đôi ba đoạn chính: Hoàng Chí Phong ra tù với một chồng sách trên tay, gương mặt tự tin ngời sáng. Tôi tin, những tù nhân lương tâm trẻ tuổi của chúng ta, nếu không bị tước đoạt quyền được đọc sách báo trong tù, thì khi được trả tự do, họ cũng như vậy…
Người ta nghĩ nếu có báo chí tư nhơn, có tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, thì mọi người sẽ thấy Hồ Chí Minh hoàn toàn khác. Hồ sẽ trở lại đúng con người thật của Hồ, với bản chất đại gian đại ác và dâm dục. Chẳng riêng gì Hồ Chí Minh mà cả cái nhóm chóp bu của đảng cộng sản ở Hà nội đó, từ lúc ra đời cho tới ngày nay, cũng chỉ là những tên tội phạm hình sự hoặc tội phạm chống nhơn loại. Đặc biệt với nhơn dân Việt nam, thì còn là tội phá hoại xã hội và ngày nay, là tội bán nước.
Đức Phật đã dạy đường vào giải thoát có nhiều cửa, không phải chỉ một. Học nhân thời nay, đặc biệt là tại Tây Phương, không chú ý nhiều về Vô Tướng Tam Muội, nhưng đây lại là một cửa vào giải thoát phổ biến trong Thiền Tông Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản, và Đại Hàn. Có thể tóm tắt pháp môn này là, “Không hề có một pháp nào để làm.”
về việc cộng sản Việt Nam bắt giữ các thành viên Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam... Chúng tôi kêu gọi đồng bào Việt Nam, trong nước và hải ngoại, sát cánh yểm trợ cuộc đấu tranh ôn hòa và chính đáng của các tù nhân lương tâm
Thống Đốc California Gavin Newsom hôm Thứ Ba, 26 tháng 5 tuyên bố rằng ông sẽ nới lỏng các hạn chế của tiểu bang đối với ngành hớt tóc và hair salon cho một số quận trong tiểu bang đáp ứng một số tiêu chuẩn về sức khỏe. Tiểu bang, đã đưa ra một trong những lệnh ở trong nhà trên toàn tiểu bang sớm nhất vào giữa tháng 3, đã và đang tái mở cửa kinh tế toàn tiểu bang trong các giai đoạn. Tiểu bang hiện đang ở giai đoạn 2 của kế hoạch tái mở cửa, mà đã cho phép các cơ sở kinh doanh bán lẻ và việc làm sản xuất với những điều chỉnh. Các quận trong tiểu bang đã đáp ứng một số tiêu chuẩn sức khỏe, gồm ít hơn 25 trường hợp lây nhiễm cho mỗi 100,000 cư dân trong vòng 14 ngày qua hay ít hơn 8% số người thử nghiệm dương tính trong tuần rồi, được phép tiến tới kế hoạch tái mở cửa của tiểu bang.
Đoạn phim về sự đối đầu giữa người da đen quan sát chim và người da trắng dắt chó đi bộ trong Công Viên Trung Tâm Thành Phố New York đã lan truyền, đang khơi dậy cuộc tranh luận về sự kỳ thị chủng tộc hàng ngày và cơn bão truyền thông xã hội. Sự kiện theo sau các trường hợp khét tiếng khác của người da trắng gọi cảnh sát sau khi gặp người da đen đang làm những việc thường ngày như chạy bộ, ở trong công viên hay trên đường phố, đang bơi lội, nướng thịt hay chỉ làm vườn.
Tháng tư/ 2019, các khoa học gia chụp được – thực ra là “tạo” được – tấm hình Hố Đen đầu tiên, giúp nhân loại có dịp chiêm ngưỡng thêm một tí dung nhan của vũ trụ. Sau khi long trọng ăn mừng thành tích mới của ngành khoa học không gian, bước kế tiếp của chúng ta là gì? Có người đề nghị: đặt lại tên, cho nó một danh tánh mới bảnh hơn. Ý kiến rất hay, vì việc tìm tên mới là một trọng trách, đòi hỏi phải nghiên cứu nghiêm chỉnh, kỹ lưỡng. Muốn cho Hố Đen cái tên đúng nghĩa, cần biết nó là cái gì.
California sẽ cho phép các nơi thờ phụng mở cửa các dịch vụ trực tiếp với sức chứa giảm và cho phép các nhà bán lẻ mở để mua sắm trong cửa hàng, theo các viên chức tiểu bang tuyên bố hôm Thứ Hai, 25 tháng 5. Theo các hướng dẫn được công bố bởi Thống Đốc California Gavin Newsom hôm Thứ Hai, các nhà thờ sẽ được phép tái mở cửa với sự chấp thuận từ các viên chức y tế công cộng trong quận, nhưng họ sẽ được yêu cầu giữ số người tham dự 25% sức chứa hay tối đa 100 người. Các viên chức y tế công cộng của tiểu bang và quận sẽ hợp tác để giám định bất cứ sự gia tăng tử vong và số người vào bệnh viên sau 3 tuần nới lỏng các hạn chế.
Ngày Lễ Chiến Sĩ Trận Vong năm 2020 đưa ra một mảng trái ngược khi một số người Mỹ ở trong nhà, những người khác tràn ra các bãi biển và hồ tắm, và các nhà lãnh đạo chính trị quốc gia đã vinh danh các thế hệ hy sinh vì chiến tranh, với cựu phó tổng thống Joe Biden đeo khẩu trang và TT Trump không đeo gì cả.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.