Hôm nay,  

Song ngữ: Hãy thấy như mù, nghe như điếc // Just see as if you were blind; hear as if you were deaf

10/01/202508:09:00(Xem: 3137)
blank
 

Hãy thấy như mù, nghe như điếc
 

Nguyên Giác

 

Trong nhiều kinh, Đức Phật khi giải thích về vô thường đã hỏi rằng có phải mắt và cái được thấy là vô thường hay không, rồi hỏi có phải tai và cái được nghe là vô thường hay không, và rồi vân vân. Như thế, đối với nhiều người tu, quán sát nơi con mắt sẽ là bước đầu để học đạo giải thoát. Tuy nhiên, đối với Thiền Tông Việt Nam, có một số vị thầy dạy rằng hãy nhìn như một người mù nhìn, và hãy nghe như một người điếc nghe. Lời dạy về con đường giải thoát này là như thế nào?
 

Thiền sử Việt Nam có kể về Thiền sư Định Hương trong thế kỷ 11, thuộc dòng Vô Ngôn Thông. Thuở nhỏ, ngài Định Hương học với Thiền sư Đa Bảo tại chùa Kiến Sơ. Sau 24 năm tu học, ngài Định Hương hiểu rõ ý chỉ của dòng Thiền này. Thiền sư Đa Bảo mới dạy ngài Định Hương rằng, từ nay ngươi hãy như một kẻ mù và điếc trong việc giao tiếp với mọi người. Câu hỏi của chúng ta, những người của mười thế kỷ sau, rằng tại sao phải nhìn như kẻ mù và phải nghe như kẻ điếc.
 

Chỗ này, chúng ta có thể nhớ tới trong Trưởng Lão Tăng Kệ, có bài thơ của ngài Maha-Kaccana, được ghi ký số là Thag 8.1. Bài thơ này dài tám đoạn, trong đó có hai đoạn cuối như sau.
 

Người tu nghe tất cả bằng tai

Người tu thấy tất cả bằng mắt.

Người trí tuệ không nên xua đẩy

tất cả những gì được thấy và được nghe.

   

Người có mắt hãy như mù,

Người có tai hãy như điếc,

Người có trí tuệ hãy như câm,

Người có sức mạnh hãy như kẻ yếu đuối.

Sau đó, khi mục tiêu đã đạt được,

Người tu có thể nằm trên giường từ trần.

 

Nhà sư Maha-Kaccana là một vị A la hán, một đệ tử lớn của Đức Phật. Bài thơ rất đơn giản, nghịa rất rõ ràng, nhưng ẩn ý hẳn là rất thâm sâu. Có phải dòng Thiền của Thiền sư Đa Bảo xuất phát từ truyền thừa của ngài Maha-Kaccana? Có thể là như thế. Nhưng lịch sử không ghi rõ như thế.

  

Có một Thiền sư ni Việt Nam trong cuối thế kỷ 20 cũng có một bài thơ mang ý chỉ gần như y hệt bài thơ của ngài Maha-Kaccana. Đó là Ni Trưởng Thích Nữ Trí Hải (1938 – 2003). Bài thơ có nhan đề là Người Gỗ, gồm ba đoạn, ghi lại như sau.
 

Một thây chết diệu kỳ

Biết ăn và biết ngủ

Thỉnh thoảng lại biết đi

Nhưng không tư tưởng gì.

  

Như người gỗ ngắm hoa

Như hồ gương chiếu nguyệt

Đá núi cũng xếp hàng

Ngắm kỳ quan diễm tuyệt.

 

Lúc nào thưởng thức trọn

Vũ trụ nhiệm màu này

Chính lúc tâm bất động

Như thây chết biết đi.

 

Trong thơ Thiền Việt Nam, hình ảnh người gỗ cũng đã từng nói tới trong thời thế kỷ 13. Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sỹ (1230 - 1291) cũng từng viết về người tu thiền hãy nên như người gỗ hát khúc nhạc vô sanh, và hãy như cô gái đá thổi một loại kèn xưa. Hiển nhiên, ai cũng biết rằng người gỗ không thế mở miệng, và cô gái đá không thể cử động.
 

Ni trưởng Thích Nữ Trí Hải trong bài thơ Người Gỗ nêu trên tự kể rằng Ni trưởng sống như một thây chết, nhưng biết ăn, biết ngủ, biết đi, biết ngắm hoa, biết nhận ra tâm bất động trong khi tâm vẫn bất động. Hiển nhiên, đó là một người đang đi, đứng, nằm, ngồi trong thiền định. Có thể là Sơ thiền, khi tâm đã ly dục, ly bất thiện pháp. Cũng có thể là đã vào Nhị thiền, nơi ngôn ngữ tịch lặng. Bài phân tích này không có ý đánh giá phức tạp, chỉ là vài gợi ý cho độc giả có thể hiểu về cách tu của tiền nhân.
 

Chúng ta có thể nhớ tới Kinh SN 35.240 Sutta, khi Đức Phật dạy về cách tu như một con rùa. Khi bị con giả can tới quậy phá, con rùa co toàn thân, các chân và cổ, vào trong mu rùa, không để sơ hở chỗ nào. Đức Phật nói rằng, tương tự như thế, Ác ma đang rình mò không ngừng, hễ người tu sơ hở ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý là sẽ bị Ác ma dẫn đi vào ba cõi và sáu đường.
 

Lúc đó, Đức Phật dạy rằng người tu phải hộ trì các căn. Nghĩa là khi mắt thấy cái được thấy, thì đừng nắm giữ tướng chung, và đừng nắm giữ tướng riêng; lúc đó, tham, sân, si không khởi lên. Tương tự, với tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc và ý tư lường.
 

Tuy nhiên, các Thiền sư Việt Nam không nhìn vấn đề theo cách đối trị, như kiểu con rùa phòng thủ, chống con giả can. Trong bài thơ của Ni trưởng Trí Hải nói rằng Ni trưởng sống y hệt xác chết, nhưng tâm hiển lộ như mặt hồ nước tịch lặng đang hiện ra mặt trăng sáng, và không hề có niệm nào khởi lên.

Thêm nữa, Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sỹ cũng từng làm bài thơ ghi rằng, hãy tu như con trâu bùn lội qua dòng sông sinh tử. Nghĩa là, con trâu bùn với từng bước đi sẽ từ từ tan rã vào dòng sông.    
 

Bạn cũng có thể thực tập pháp tu như ngài Maha-Kaccana và như các thiền sư Việt Nam nêu trên: hãy tỉnh thức, trong mọi thời, thường trực nhìn thấy thân và tâm của bạn như mù, câm, điếc, khờ dại, xác chết… Bạn sẽ thấy cách này là một Thiền pháp giữ sự tỉnh thức về tịch diệt, về vắng lặng, về tâm bất động, về cảnh giới khi ba cõi không còn gì để sinh khởi, và về một tâm nơi không có gì để niệm.
 

Bạn có thể tạm ngưng đọc vài phút, xin mời nằm (hay ngồi cũng được), rồi tự hình dung rằng bạn đang là một người gỗ (mù, câm, điếc, khờ dại, nằm chết…), toàn thân từ sợi tóc tới móng chân đang từ từ trở thành xác chết, và rồi tới một lúc toàn thân chỉ còn là một sự tịch lặng, vắng lặng. Bạn cảm nhận thấy tứ đại tan rã theo từng khoảnh khắc của vô thường. Một khoảnh khắc tịch lặng được như thế, sẽ là một khoảnh khắc an lạc, hạnh phúc. Xin nhìn kỹ, chính cái tâm đang tỉnh thức và đang cảm thọ niềm vui tịch lặng đó ngay nơi đó đã lìa tham sân si. Đó là tỉnh thức với vô niệm, chứ không phải là ngăn niệm. Tâm bạn trở thành cái lặng lẽ của người gỗ một cách tự nhiên khi cảm nhận đều tịch lặng.
 

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, nơi Phẩm 7, tức là Phẩm Cơ Duyên, nơi Lục Tổ Huệ Năng nói với Tăng Chí Đạo, rằng Đức Phật dạy về Niết bàn chân lạc, nơi trong từng sát-na không hề có tướng sanh, và trong từng sát-na không hề có tướng diệt, và cũng không có sanh và diệt có thể diệt, và đó là tịch diệt hiện tiền.
 

Đúng vậy. Bạn có thể tập được như thế. Khi bạn thấy bạn là người gỗ, thì tâm sẽ không có tướng sanh, cũng không có tướng diệt. Đó chính là, theo cách Ni Trưởng Trí Hải viết trong bài thơ, rằng tâm như người gỗ, tâm như mặt hồ, tâm như gương hiện ảnh, tâm như đá núi, và là tâm bất động. Đó là sống như thây chết diệu kỳ. Thấy mình như như thây chết như thế, chính là sống với cái sát na tịch diệt, sống với cái vắng lặng bất khả tư lường. Và đó chính là Niết Bàn Tâm.
 

.... o ....
 

Just see as if you were blind; hear as if you were deaf

Written and translated by Nguyên Giác

  

In many sutras, the Buddha, while explaining the concept of impermanence, inquired whether the eye and its objects are impermanent and similarly questioned the ear and what is heard, among other senses. For many practitioners, observing the eye serves as the initial step toward understanding the path to liberation. However, in Vietnamese Zen, some teachers advocate for seeing the world as a blind person does and listening as a deaf person hears. What does this Zen teaching convey about the path to liberation?
 

Vietnamese Zen history recounts the story of Zen Master Định Hương, who lived in the 11th century and belonged to the Vô Ngôn Thông lineage. As a child, Định Hương studied under Zen Master Đa Bảo at Kiến Sơ Pagoda. After 24 years of diligent study, Định Hương gained a profound understanding of the teachings of this Zen lineage. Zen Master Đa Bảo instructed Định Hương to communicate with others as if he were blind and deaf. This raises a question for us, people living ten centuries later: Why must we see as a blind person and hear as a deaf person?
 

Here, we can recall a poem by Maha-Kaccana in the Theragatha, numbered Thag 8.1. This poem consists of eight stanzas, translated from Pali by Bhikkhu Bodhi. The last two stanzas are presented below.
 

One hears all with the ear,

One sees all with the eye,

The wise man should not reject

Everything that is seen and heard.

 

One with eyes should be as if blind,

One with ears as if deaf,

One with wisdom as if mute,

One with strength as if feeble.

Then, when the goal has been attained,

One may lie upon one's death bed.

 

The monk Maha-Kaccana was an Arhat and a distinguished disciple of the Buddha. The poem is straightforward, and its meaning is clear; however, the underlying significance is likely profound. Did the Zen lineage of Zen Master Đa Bảo originate from Maha-Kaccana's lineage? It is possible, but history does not document this connection clearly.
 

In the late 20th century, a Vietnamese Zen nun wrote a poem that bore a striking resemblance to Maha-Kaccana's poem. This nun was Venerable Thích Nữ Trí Hải (1938-2003). She titled her poem "Wooden Person" and recorded its three stanzas.
 

This is a miraculous corpse that not only eats and sleeps, but also occasionally walks, all while remaining devoid of thoughts.
 

This individual contemplates the wonders of beautiful landscapes, much like a wooden figure gazing at flowers. Her mind resembles a lake reflecting the moon, with rocks and mountains arranged before her eyes.
 

This person completes this extraordinary universe, especially when her mind remains still, resembling a walking corpse.

 

 

The 13th century saw references to the image of a wooden figure in Vietnamese Zen poetry. Zen Master Tuệ Trung Thượng Sỹ (1230 - 1291) wrote that a Zen practitioner should be like a wooden figure singing the song of the unborn and like a stone girl playing an ancient type of trumpet. Clearly, everyone understands that the wooden figure cannot open its mouth, and the stone girl cannot move.
 

In the poem mentioned above, Venerable Thích Nữ Trí Hải expressed that she lived like a corpse, yet she knew how to eat, sleep, walk, admire flowers, and recognize the stillness of the mind while it remained motionless. Clearly, this describes a person who is walking, standing, lying down, or sitting in meditation. It could represent the First Jhana, when the mind has relinquished desire and unwholesome states of mind. Alternatively, it may refer to the Second Jhana, where language becomes silent. This analysis aims to provide readers with a few insights to enhance their understanding of our ancestors' practices, without attempting a complex evaluation.
 

We can recall the SN 35.240 Sutta, where the Buddha taught how to practice like a turtle. When the jackal came to disturb the turtle, the turtle withdrew its entire body, legs, and neck into its shell, leaving no opening. According to the Buddha, the Evil One lurks constantly, and if a practitioner exhibits carelessness in their eyes, ears, nose, tongue, body, and mind, the Evil One will guide them into the three realms and six paths.
 

At that time, the Buddha taught that practitioners must guard their senses. Specifically, when the eyes perceive an object, one should refrain from clinging to general characteristics or specific details; in doing so, greed, anger, and delusion will not arise. Similarly, this principle applies to the ears hearing sounds, the nose detecting scents, the tongue tasting flavors, the body experiencing sensations, and the mind engaging in contemplation.
 

However, Vietnamese Zen masters do not look at the problem in an antidotal way, like a turtle defending against a jackal. In the poem of Venerable Trí Hải, it is said that she lives exactly like a corpse, but her mind is revealed like the surface of a calm lake reflecting the bright moon, and no thoughts arise.
 

Furthermore, Zen Master Tuệ Trung Thượng Sỹ once wrote a poem stating that one should practice like a mud buffalo wading through the river of birth and death. That is, the mud buffalo, with each step, will slowly dissolve in the river.
 

You can also practice the Dharma like Maha-Kaccana and the Vietnamese Zen masters mentioned above: remain awake at all times, consistently perceiving your body and mind as blind, mute, deaf, foolish, and lifeless. This Zen method helps maintain awareness of nirvana, silence, and an unmoving mind—an existence where the three realms have nothing left to manifest and a mind devoid of thoughts.
 

You may pause your reading for a few moments. Please lie down or sit comfortably, and then imagine that you are a wooden figure—blind, mute, deaf, and devoid of thought, lying still as if lifeless. Visualize your entire body, from your hair to your toenails, gradually transforming into a corpse. Eventually, silence and stillness envelop your entire being. With each passing moment, you sense the four elements disintegrating, reflecting the impermanence of existence. This moment of silence can bring you peace and happiness. Observe closely: the mind that experiences this silent joy has transcended greed, anger, and ignorance. This state of awareness is characterized by a lack of thought, not the cessation of thoughts. When you embrace this quietude, your mind naturally embodies the stillness of a wooden figure.
 

In the Dharma Jewel Platform Sutra, in Chapter 7, that is, the Chapter of the Cause and Effect, where the Sixth Patriarch Hui Neng told Tăng Chí Đạo that the Buddha taught about the true bliss of Nirvana, where in each moment there is no sign of birth, and in each moment there is no sign of extinction, and there is also no birth and extinction that can be extinguished, and that is present nirvana.
 

Yes, you can practice in this manner. When you perceive yourself as a wooden figure, the mind will exhibit no signs of birth or death. This concept aligns with the way Venerable Trí Hải described it in her poem: the mind is akin to a wooden figure, a lake, a mirror reflecting images, a mountain rock, and is ultimately motionless. This state of being resembles living as a miraculous corpse. To see yourself in this way is to exist in the moment of extinction, embracing immeasurable silence. This is the essence of the Nirvana Mind.

.

Tham khảo / Reference:

- Theragatha, Thag 8.1:  https://www.accesstoinsight.org/tipitaka/kn/thag/thag.08.01.bodh.html

- Thiền Pháp Người Gỗ: https://thuvienhoasen.org/a36855/ni-truong-tri-hai-thien-phap-nguoi-go

- Kinh SN 35.240: https://suttacentral.net/sn35.240/vi/minh_chau

.... o ....



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một di sản văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam vừa được Viện Việt Học trình bày trước công chúng: ấn hành tác phẩm “Tuồng Kim Vân Kiều: Truyện Kiều ở Nam Kỳ Lục Tỉnh” (Hồi 1/3) vừa được Giáo sư Nguyễn Văn Sâm phiên âm và giới thiệu
Phiên xử luận tội lần thứ 3 trong lịch sử Hoa Kỳ đã bắt đầu vào Thứ Năm, 16 tháng 1 năm 2020 giữa một loạt các cáo buộc mới về các thương lượng của TT Trump với Ukraine, mà nhiều nhà lập pháp Cộng Hòa đã vội vã hạ thấp mức độ quan trọng khi họ bác bỏ các lời kêu gọi của những nhà lập pháp Dân Chủ đòi điều tra thêm.
Trong vòng một thập niên qua, số lượng – và chiều kích – của viện bảo tàng, phòng trưng bày, hội chợ nghệ thuật, và trường nghệ thuật trên khắp thế giới đã gia tăng dữ dội, và người ta cảm thấy an tâm để nói rằng nhiều nghệ thuật đã được sáng tạo trong vòng 10 năm qua hơn bất cứ thời gian nào khác trong lịch sử nhân loại.
Nghệ sĩ không phải chỉ là người sáng tạo nên tác phẩm. Nghệ sĩ còn là kẻ sáng tạo nên bản thân mình. Không ngừng. Họa sĩ Võ Đình khằng định như vậy trong cuốn Mây Chó. Về cuối đời ông viết nhiều hơn vẽ. Sau 10 năm sống ở Pháp sang Mỹ năm 1960 qua nhiều tiểu bang, nơi đâu ông cũng thích ngụ ở vùng thôn dã.
Lời tòa soạn: Từ Franz Kafka đến Milan Kundera, hai nhà văn kiệt xuất của thế kỷ XX. Cả hai đều có chung một nền tảng văn hóa, một khảo hướng và một chủ hướng văn học: làm mới văn chương và dùng tiểu thuyết để nói những điều chỉ tiểu thuyết mới nói được. Cả hai đều để lại cho hậu thế những kiệt tác văn học, ảnh hưởng bao trùm gần như toàn thể nhân loại. Kafka sống vào đầu thế kỷ, Kundera vẫn còn tại thế dù năm nay, 2020, đã trên 90 tuổi. Việt Báo hân hạnh gửi đến độc giả Việt bốn phương ít dòng tiêu biểu của hai nhà văn lừng lẫy này qua phần chuyển ngữ và giới thiệu của dịch giả Trịnh Y Thư.
Nhà văn Dương Hùng Cường sinh ngày 1/10/1934 tại Hà Nội. Ông gia nhập Không quân và học về cơ khí tại Pháp năm 1953. Ông là hạ sĩ quan phục vụ ở nhiều đơn vị từ 1955, đến những năm 1960 mang cấp bậc Chuẩn úy, làm việc tại Phòng Tâm lý chiến, Bộ Tư lệnh Không quân VNCH.
Một đất nước mà chính quyền bao che cho quan chức từ cao xuống thấp cướp đất của dân để trở thành quốc nạn là điều bất hạnh cho dân tộc, và hiện tượng này đã không dừng ở đó mà còn đi xa hơn nữa để biến nó thành mối hận thù giữa dân oan và nhà nước như trường hợp xảy ra trong tuần qua tại xã Đồng Tâm.
Nhân dịp Xuân Canh Tý Chùa Phật Tổ có liên lạc được với building gần Chùa khoảng 2 Miles, Phật tử có thể đậu xe tại 1305 E . Pacific Coast Highway, Long Beach, CA 92806 lot # 1 Mỗi xe trả lệ phí $2.00 và sẽ có xe đưa đón đến chùa vào những ngày 25, 26 tháng 1 và 1, 2, 8, 9 tháng 2. Rất mong Quý Phật Tử hoan hỉ cảm thông cho sự bất tiện về đi lại và kính mời quí vị về Chùa đón Xuân Canh Tý 2020. LL (562) 599-5100.
Hàng ngàn năm trước, một người phụ nữ trẻ thời Đồ Đá Mới mà hiện nay nằm ở nước Đan Mạch đang nhai một miếng nhựa cây thông. Phân tích DNA của “miếng kẹo cao su đang nhai” của người thời Đồ Đá Mới hiện đã được công bố, trong chi tiết rất đáng lưu ý, người phụ nữ này trông giống gì, theo bài báo được đăng hôm 17 tháng 12 năm 2019 trong tạp chí Nature Communications được phổ biến trên trang mạng www.livescience.com
Mục di trú và bảo lãnh do Văn Phòng tham vấn di trú Robert Mullins International đảm trách hằng tuần, rất hữu ích cho quý vị nào quan tâm đến việc bảo lãnh thân nhân. Đề tài trên đây cũng được thảo luận trực tiếp trên www.Facebook.com/rmiodp vào mỗi tối thứ Tư , từ 7:00-8:00 giờ, hoặc sáng thứ Năm lúc 10:00 sáng, giờ Việt Nam.
Hôm nay nhằm ngày nghỉ, sáng vẫn thức sớm vì thói quen hằng ngày, cơ thể điều khiển chị giờ đó phải ngồi dậy, có muốn nướng thêm chút xíu cho chín đều cái lưng ngày xưa thon thon như cá lòng tong bây giờ bự bự như cá voi, cũng không xong.
Boot cao ống chỉ thích hợp ở những vùng mùa đông rất lạnh, hay có tuyết mà thôi. Nếu ở xứ nóng, không có tuyết mà diện giày boots có hơi khác thường. Có thể chọn loại boots cao tới mắc cá thì thích hợp hơn cho thời tiết lạnh hay mưa.
Thí sinh đi thi rất căng thẳng do đó dễ bị mệt mỏi, khi thi sẽ quên đầu quên đuôi, lập cập, lúng ta lúng túng…
Chọn kiếng mát tùy theo hình dạng của khuôn mặt. Chúng ta có thể phân loại 6 khuôn mặt như: mặt tròn, mặt dài, mặt vuông, mặt trái soan, mặt tam giác, mặt trái tim.
Thứ Hai, ngày 20 tháng 1 năm 2020, nước Mỹ ăn mừng sinh nhật lần thứ 91 của Mục Sư Martin Luther King, Jr., nhà lãnh đạo nổi tiếng của phong trào nhân quyền và dân quyền Mỹ trong 2 thập niên 1950s và 1960s.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.