Hôm nay,  

Niết Bàn: Tâm, Cảnh Vốn Không / Nirvana: Mind and its objects are inherently empty

05/02/202509:08:00(Xem: 4251)
blank 
Niết Bàn: Tâm, Cảnh Vốn Không

Nguyên Giác


Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản. Lời dạy đó là từ một bài thơ của Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) khi ngài dạy ý chỉ Thiền tông cho vua Trần Nhân Tông. Lời dạy đó cũng là đúc kết từ nhiều Kinh khác nhau do Đức Phật truyền dạy.

Bải thơ do ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy Trần Nhân Tông có mấy dòng cuối trong tiếng Hán-Việt như sau:

Nhựt nhựt đối cảnh thời
Cảnh cảnh tòng tâm xuất
Tâm cảnh bổn lai vô,
Xứ xứ Ba-la-mật.


Dịch nghĩa ra văn xuôi tiếng Việt hiện đại như sau: Ngày ngày, khi đối diện với các cảnh, hãy thấy tất cả các cảnh đều từ tâm sinh ra. Khi bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, thì sẽ thấy khắp nơi đều là Niết bàn.

Như thế, hãy thấy cảnh vốn là từ tâm sinh khởi, và rồi hãy thấy cả tâm và cảnh vốn đều là rỗng không, là không hề có tự tánh nào cả. Thấy thường trực như thế, bạn sẽ thấy tất cả các nơi chốn mười phương đều là Niết Bàn.

Tới đây, chúng ta nhớ tới hai bài kệ đầu tiên trong Kinh Pháp Cú, trong bản dịch của Thầy Thích Minh Châu như sau.

Bài Kệ 1.
Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe, chân vật kéo.


Bài Kệ 2.
Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý thanh tịnh,
Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau,
Như bóng, không rời hình.


Làm thế nào để hiểu rằng thế giới này là hiển lộ của tâm chúng ta? Nếu như thế, tâm của chúng ta sẽ nhỏ rất nhỏ, và cũng rộng lớn vô cùng tận. Đức Phật đã giải thích trong Kinh SN 35.23 rằng  tất cả thế giới này đối với từng người chúng ta chính là mắt và cái được thấy, tai và cái được nghe, mũi và cái được ngửi, lưỡi và cái được nếm, thấn và cái được chạm xúc, ý và cái được tư lường.

Trong Kinh SN 35.23, bản dịch của Thầy Thích Minh Châu trích như sau:

"Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tất cả? Mắt và các sắc; tai và các tiếng; mũi và các hương; lưỡi và các vị; thân và các xúc; ý và các pháp. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là tất cả.
Này các Tỷ-kheo, ai nói như sau: “Sau khi từ bỏ tất cả này, ta sẽ tuyên bố (một) tất cả khác”, thời lời nói người ấy chỉ là khoa ngôn. Và bị hỏi, người ấy không thể chứng minh gì. Và hơn nữa, người ấy có thể rơi vào ách nạn. Vì sao? Này các Tỷ-kheo, như vậy ra ngoài giới vức (avisaya) của người ấy!
"

Khi nhận ra thế giới này chỉ là những gì tương tác với chúng ta, hiển nhiên mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý sẽ bao trùm cả vũ trụ này, trong chừng mực những gì chúng ta có thể tương tác được. Đúng như thế, Đức Phật nói trong Kinh SN 35.228 rằng mắt chính là đại dương; tương tự, tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng là những đại dương vô cùng tận. Người tu phải vượt qua những dòng chảy, những xoáy nước, cá mập và quỷ dữ trên đại dương để tới nơi bình yên của giải thoát.

Như thế, tâm của chúng ta là vô lượng, không thể đo lường được. Chúng ta nhận biết thế giới này qua tương tác của căn, trần và thức. Người tu phải sống xả ly, không bị vướng gì hết, mới có thể giải thoát với tâm không hạn cuộc.

Đức Phật giải thích trong Kinh AN 10.81 như sau, theo bản dịch của Thầy Thích Minh Châu:

"Từ mười pháp, này Bàhuna, Như Lai sống xuất ly, ly hệ, giải thoát với tâm không hạn cuộc. Thế nào là mười?
Từ sắc, này Bàhuna, Như Lai sống xuất ly, ly hệ, giải thoát với tâm không hạn cuộc. Từ thọ, này Bàhuna… Từ tưởng, này Bàhuna… Từ các hành, này Bàhuna… Từ thức, này Bàhuna… Từ sanh, này Bàhuna… Từ già, này Bàhuna…Từ chết, này Bàhuna…Từ các khổ này, Bàhuna…. Từ các phiền não, này Bàhuna, Như Lai sống xuất ly, ly hệ, giải thoát với tâm không hạn cuộc.
Ví như, này Bàhuna, hoa sen xanh, hay hoa sen hồng, hay hoa sen trắng, sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn lên mặt nước và đứng, không có dính nước. Cũng vậy, này Bàhuna, từ mười pháp này, Như Lai sống xuất ly, ly hệ, giải thoát với tâm không hạn cuộc
."

Khi nói rằng giải thoát với tâm không hạn cuộc, có nghĩa là tâm rộng vô giới hạn, và là tâm của người sống với cái bản gốc là Không. Tức là thấy được cả tâm và cảnh đều vốn là Không. Đó cũng là khi thức tịch diệt. Chúng ta có thể gọi đó là vô tâm, hay vô niệm, hay không tư lường.

Trong Kinh Snp 5.2, Đức Phật giải thích rằng khi thức tịch diệt thì giải thoát như sau, khi trả lời Ajita:

"Câu hỏi này đã được người hỏi, Ajita, ta có thể trả lời! Để cho tâm và thân tịch diệt không còn dư tàn: đó là khi chấm dứt của ý thức, tại nơi này thức tịch diệt."

Tới đây, chúng ta có thể nêu câu hỏi, làm sao để thấy tâm và cảnh là không, để thấy tận nơi thức tịch diệt? Chúng ta có thể dẫn ra Kinh Đàn Tỳ Bà SN 25.246, Đức Phật kể rằng một vị vua nghe tiếng đàn tỳ bà rất êm tai, dịu dàng, quyến rũ, nên ra lệnh đem cây đàn tỳ bà về, bảo tìm âm thanh tuyệt diệu kia. Không ai tìm được tiếng nhạc kia. Bởi vì âm nhạc đó là do nhiều duyên sinh khởi, do cây đàn làm bằng loại gỗ quý trên rừng, từ dây đàn, từ bản nhạc hay, từ tài năng người chơi đàn, và từng nốt nhạc khởi lên là biến mất theo dòng chảy vô thường.

Cho dù có chẻ cây đàn ra 100 mảnh cũng không ai tìm ra được tiếng đàn. Tất cả đều vô ngã, đều do nhiều duyên mà thành, và ngay khi sinh là tức khắc diệt. Người tu thấy được tất cả đều vô ngã, đều do nhiều duyên, đều vô thường chảy siết, thì sẽ thấy thức tịch diệt vì không có gì có thể nghĩ ngợi hay bàn luận. Lúc đó, thức sẽ tịch diệt, vắng lặng; và lúc đó, thân và tâm cùng tịch diệt. Lúc đó, hiểu rằng tâm và cảnh vốn là Không, là vắng lặng.

Đó là ý nghĩa lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ: Ngày ngày, khi đối diện với các cảnh, hãy thấy tất cả các cảnh đều từ tâm sinh ra. Khi bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, thì sẽ thấy khắp nơi đều là Niết bàn.

.... o ....

Nirvana: Mind and its objects are inherently empty

Written and translated by Nguyên Giác

 
When you recognize that the mind and its objects are inherently empty, you will realize that Nirvana exists everywhere. This teaching is derived from a poem by Zen Master Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291), who imparted Zen teachings to King Trần Nhân Tông. It also serves as a summary of various sutras taught by the Buddha.

The Chinese poem composed by Tuệ Trung Thượng Sĩ to instruct Trần Nhân Tông concludes with the following lines, rendered in modern Vietnamese prose: Throughout the day, as you encounter various scenes, recognize that everything originates from the mind. When you understand that both the mind and its objects are inherently empty, you will realize that Nirvana exists everywhere.


Thus, recognize that all experiences originate from the mind, and understand that both the mind and its objects are inherently empty, lacking any intrinsic nature. By maintaining this awareness, you will come to realize that all locations in the ten directions are manifestations of Nirvana.

Here, we recall the first two verses of the Dhammapada, translated by Ācāriya Buddharakkhita, as follows.

Verse 1: Mind precedes all mental states. Mind is their chief; they are all mind-wrought. If with an impure mind a person speaks or acts suffering follows him like the wheel that follows the foot of the ox.

Verse 2: Mind precedes all mental states. Mind is their chief; they are all mind-wrought. If with a pure mind a person speaks or acts happiness follows him like his never-departing shadow.

How can we understand that this world is a manifestation of our mind? If that is the case, our mind must be both tiny and incredibly vast. The Buddha explained in the SN 35.23 Sutta that for each of us, this entire world consists of the eye and what is seen; the ear and what is heard; the nose and what is smelled; the tongue and what is tasted; the body and what is touched; and the mind and what is thought.
 
In the Sutta SN 35.23, Bhikkhu Bodhi's translation states the following:

And what, bhikkhus, is the all? The eye and forms, the ear and sounds, the nose and odours, the tongue and tastes, the body and tactile objects, the mind and mental phenomena. This is called the all.

“If anyone, bhikkhus, should speak thus: ‘Having rejected this all, I shall make known another all’—that would be a mere empty boast on his part. If he were questioned he would not be able to reply and, further, he would meet with vexation. For what reason? Because, bhikkhus, that would not be within his domain
.”

When we recognize that the world consists solely of our interactions, it becomes clear that our eyes, ears, nose, tongue, body, and mind encompass the entirety of the universe as far as our engagement allows. Indeed, the Buddha stated in the SN 35.228 Sutta that the eyes are like the ocean; similarly, the ears, nose, tongue, body, and mind represent an endless ocean as well. The practitioner must navigate the currents, whirlpools, sharks, and demons within this ocean to attain the tranquil state of liberation.
 
Thus, our minds are limitless and immeasurable. We perceive the world through the interaction of our senses, objects, and consciousness. A practitioner must live in detachment, free from entanglement, in order to achieve liberation with a boundless mind.
 
The Buddha explains in the AN 10.81 Sutta as follows, according to Bhikkhu Sujato's translation:

Bāhuna, the Realized One has escaped from ten things, so that he lives detached, liberated, his mind free of limits. What ten? Form … feeling … perception … choices … consciousness … rebirth … old age … death … suffering … defilements … Suppose there was a blue water lily, or a pink or white lotus. Though it sprouted and grew in the water, it would rise up above the water and stand with no water clinging to it. In the same way, the Realized One has escaped from ten things, so that he lives detached, liberated, his mind free of limits.”
  
When we say that liberation arises from a limitless mind, we mean that the mind is boundless and reflects the original nature of Emptiness. This perspective recognizes that both the mind and its objects are inherently empty. Consciousness extinguishes at this point. We can refer to this state as "no mind," "no thought," or "no conception."
 
In the Snp 5.2 Sutta, the Buddha explains that when consciousness ceases, liberation follows, in response to Ajita, according to Bhikkhu Ānandajoti's translation as follows:

This question that was asked, Ajita, I can answer it! As to where mind and body ceases without remainder:
with the cessation of consciousness, in this place it ceases
.”

At this point, we can pose the question: How can we perceive that the mind and its objects are empty and identify the very moment when consciousness ceases? We can reference the SN 25.246 Sutta, in which the Buddha recounts a story about a king who heard a lute's sound that was exceptionally pleasant, gentle, and alluring. Intrigued, he ordered the lute to be brought to him, seeking to rediscover that wonderful sound. However, no one could locate it. This is because the music arises from numerous causes and conditions: the lute crafted from precious wood sourced from the forest, the strings, the beautiful melodies, the skill of the lute player, and the fact that each note that emerges ultimately fades away in the stream of impermanence.
 
Even if the instrument were divided into 100 pieces, no one would be able to discern its sound. Everything is selfless; all things arise from numerous causes and conditions, and as soon as they are born, they immediately begin to perish. A practitioner who realizes that everything is selfless, created by various causes and conditions, and impermanent and in constant flux will see consciousness cease because there will be nothing to contemplate or discuss. Simultaneously, both the body and mind will cease to exist, bringing consciousness to an end. At that point, one must understand that the mind and its objects are inherently empty and silent.

The teaching of Tuệ Trung Thượng Sĩ conveys a profound message: Throughout the day, as you encounter various scenes, recognize that everything originates from the mind. When you understand that both the mind and its objects are inherently empty, you will realize that Nirvana exists everywhere.
.
THAM KHẢO / REFERENCE:
-- Kinh Pháp Cú, bản dịch Thầy Minh Châu:
https://thuvienhoasen.org/p15a7961/pham-01-10
Bản dịch của Ācāriya Buddharakkhita:
https://suttacentral.net/dhp1-20/en/buddharakkhita
-- Kinh SN 35.23: https://suttacentral.net/sn35.23/en/bodhi
-- Kinh AN 10.81:
https://suttacentral.net/an10.81/vi/minh_chau
https://suttacentral.net/an10.81/en/sujato
-- Kinh Snp 5.2:
https://suttacentral.net/snp5.2/en/anandajoti
-- Kinh Đàn Tỳ Bà SN 25.246:
https://suttacentral.net/sn35.246/vi/minh_chau
.... o ....

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tuần này sẽ đánh dấu nhiều mốc ngoặc mới trong đại dịch vi khuẩn corona khi các trường hợp bị lây nhiễm tại Hoa Kỳ đã hơn 1 triệu, ngày càng có nhiều cơ sở kinh doanh tái mở cửa và một số nhân viên y tế địa phương bắt đầu thử nghiệm kháng thể cho công chúng, theo bản tin của CNN cho biết hôm Thứ Hai, 27 tháng 4 năm 2020. Tính tới Thứ Hai, Hoa Kỳ đã có 1,008,571 trường hợp bị lây, với 56,521 người thiệt mạng.
3 videos ngắn cho thấy “hiện tượng xuất hiện trong không gian không xác định” đã được công bố bởi Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Các video, đã được phổ biến trước đây bởi một công ty tư nhân, cho thấy cái gì đó trông giống các vật bay không xác định di chuyển nhanh trong khi được thu hình bởi các máy thu hồng ngoại tuyến, theo CNN tường trình cho biết. 2 trong 3 video, các quân nhân có thể nghe được sự phản ứng các vật bay nhanh như thế nào. Một giọng nói cho thấy nó có thể là một chiếc robot.
Tháng Tư lại trở về, gợi nhớ đến ngày cuối cùng, lúc toàn miền Nam rơi vào tay đoàn quân xâm lược từ phương bắc, lần này là lần thứ 45! Trong ký ức của mỗi người dân miền Nam chúng ta, có biết bao nhiêu khúc phim lại được dịp hiển hiện, rõ ràng và linh động như vừa mới hôm qua. Có người nhớ đến cảnh hỗn loạn ở phi trường Tân Sơn Nhất, có người không sao quên được những năm tháng tù tội trong trại giam cộng sản, có người nghẹn ngào ôn lại cảnh gia đình ly tán trong những ngày kinh hoàng đó, và có biết bao người còn ghi khắc mãi những ngày lênh đênh trên sóng nước mịt mù hay băng qua rừng sâu núi thẳm để tìm đến bến bờ tự do.
Tối nay 22 Tháng Tư, chính quyền Trump đã ban hành một Sắc lệnh mở rộng những hạn chế về nhập cư trong một nỗ lực rộng lớn để tiếp tục chương trình bài ngoại nhằm đánh lạc hướng người Mỹ về thất bại của chính họ qua các giải pháp thích ứng với đại dịch coronavirus. Sắc lệnh này được xây dựng trên một số chính sách chống người nhập cư do chính quyền đưa ra trong vài năm qua đóng cửa gần như tất cả các con đường hợp pháp để nhập cư.
Bắt đầu từ sau giữa tháng Ba 2020, hầu hết các doanh nghiệp không thiết yếu trên khắp Hoa Kỳ đều đã lần lượt được lệnh phải đóng cửa để ngân chận sự lây lan của Coronavirus, trong đó có hàng chục ngàn tiệm Nail của người gốc Việt. Vì buộc phải đóng cửa một cách bất ngờ và cũng bởi chưa đến ngày trả lương theo định kỳ, nhiều chủ tiệm Nail đã không kịp thanh toán cho nhân viên khoản tiền lương của những ngày đã làm việc từ sau lần lãnh lương trước đó cho đến ngày ngưng làm việc vì Coronavirus. Ngoài ra, vì nghĩ rằng sẽ không bị buộc phải đóng cửa quá lâu, nhiều chủ tiệm Nail dự tính sẽ trả đủ tiền lương ngay khi nhân viên trở lại làm việc. Tuy nhiên, rất ít chủ doanh nghiệp hiểu rằng không thanh toán tiền lương theo đúng quy định cho nhân viên sau khi nghỉ việc, sẽ là nguyên nhân dẫn đến vô số rắc rối về pháp lý.
Những người có khuynh hướng cực đoan trong chính kiến, dù hữu khuynh hay tả khuynh, đều có những đặc điểm giống nhau và rất khác người ôn hoà. Bài viết này tóm lược một nghiên cứu tâm lý học đăng trên Sage Journals tháng Giêng 2019. Hy vọng nó sẽ giúp ta hiểu thêm về hiện tượng tâm lý chính trị cực đoan để tránh bị khích động, đồng thời giúp ta tìm ra cách hoá giải. Xin lưu ý “hữu khuynh”và “tả khuynh” trong bài được dùng theo định nghĩa thông thường và hoàn toàn không hàm ý tốt hay xấu. Trong chính trị học, cộng đồng con người thường được chia làm ba nhóm: cấp tiến (liberal), trung hoà (moderate) và bảo thủ (conservative). Sự phân cách này phần lớn xuất phát một cách tự nhiên, nhưng nó cũng có thể được nhào nặn thêm bởi giáo dục, truyền thống, truyền thông, xã hội v.v.
nhà báo kỳ cựu Don Oberdorfer trên tờ Washington Post ngày 3/3/1987 nhấn mạnh lời tuyên bố của trưởng đoàn IRAC: “Chúng tôi (người tị nạn) vẫn bị coi là một vấn đề cần giải quyết. Nay chúng tôi nhất định sẽ góp phần vào giải pháp.”
Tôi sinh ra đời tại miền Nam, cùng thời với “những tờ bạc Sài Gòn” nhưng hoàn toàn không biết rằng nó đã “làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ” của nửa phần đất nước. Và vì vậy, tôi cũng không thấy “phấn khởi” hay “hồ hởi” gì (ráo trọi) khi nhìn những đồng tiền quen thuộc với cuộc đời mình đã bị bức tử – qua đêm! Suốt thời thơ ấu, trừ vài ba ngày Tết, rất ít khi tôi được giữ “nguyên vẹn” một “tờ bạc Sài Gòn” mệnh giá một đồng. Mẹ hay bố tôi lúc nào cũng xé nhẹ nó ra làm đôi, và chỉ cho tôi một nửa. Nửa còn lại để dành cho ngày mai. Tôi làm gì được với nửa tờ giấy bạc một đồng, hay năm cắc, ở Sài Gòn – vào năm 1960 – khi vừa mới biết cầm tiền? Năm cắc đủ mua đá nhận. Đá được bào nhỏ nhận cứng trong một cái ly nhựa, rồi thổ ra trông như hình cái oản – hai đầu xịt hai loại xi rô xanh đỏ, lạnh ngắt, ngọt lịm và thơm ngát – đủ để tôi và đứa bạn chuyền nhau mút lấy mút để mãi
Chiến tranh Việt Nam có hai chiến trường: Đông Dương và Mỹ. Bắc Việt cố gắng kéo dài cuộc chiến trên chiến trường Việt Nam và đồng thời làm mệt mỏi công luận trên chiến trường Mỹ. Đứng trườc chiến lược này và kế thừa một di sản là sức mạnh quân sự, các tình trạng tổn thất và phản chiến đang gia tăng, Tổng thống Nixon cân nhắc mọi khả năng trong chính sách. Nixon quyết định chỉnh đốn các trận địa chiến cho miền Nam Việt Nam trong khi củng cố khả năng chiến đấu cho họ. Sự giảm bớt vai trò của chúng ta sẽ hỗ trợ cho công luận trong nước Mỹ. Trong thời gian này, Nixon cũng để cho Kissinger tổ chức mật đàm càng nhanh càng tốt.
Bất kỳ chiến lược nào để giảm bớt mối đe dọa từ các chính sách xâm lược của Trung Quốc phải dựa trên sự đánh giá thực tế về mức tác động đòn bẩy của Hoa Kỳ và của các cường quốc bên ngoài khác đối với sự tiến hóa bên trong nội bộ Trung Quốc. Ảnh hưởng của những thế lực bên ngoài đó có giới hạn về cấu trúc, bởi vì đảng sẽ không từ bỏ các hoạt động mà họ cho là quan trọng để duy trì sự kiểm soát. Nhưng chúng ta quả thực lại có những khí cụ quan trọng, những khí cụ này hoàn toàn nằm ngoài sức mạnh quân sự và chính sách thương mại. Điều ấy là những phẩm chất “Tự do của người Tây phương” mà người Trung Quốc coi là điểm yếu, thực sự là những sức mạnh. Tự do trao đổi thông tin, tự do trao đổi ý tưởng là một lợi thế cạnh tranh phi thường, một động cơ tuyệt vời của sự cách tân và thịnh vượng. (Một lý do mà Đài Loan được xem là mối đe dọa đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, chính là vì nó cung cấp một ví dụ với quy mô tuy nhỏ nhưng lại hùng hồn về sự thành công của hệ thống chính trị và kin
Chết phải là một chuyến du lịch tuyệt vời vì chưa có một ai đã trở về!(“La mort doit être un beau voyage puisque personne n'en est revenue”). Thông thường trong những dịp Tết, người đời thường chúc tụng lẫn nhau sống thọ đến trăm tuổi. Không phải ai muốn chết lúc nào là chết được đâu. Phải tới số mới chết. Trời kêu ai nấy dạ mà Sống quá thọ có tốt, có cần thiết không? Không có ai nghĩ giống ai hết. Đặt câu hỏi như trên có thể làm nhiều người cảm thấy khó chịu, nhưng đó là sự thật. Tuổi thọ (longévité) trong điều kiện sức khoẻ bình thường, không ngừng gia tăng thêm lên mãi tại các quốc gia kỹ nghệ giàu có... Sự gia tăng nầy thật ra phải được xem như là một sự kéo dài của tuổi trẻ (jeunesse) hơn là một sự kéo dài của…tuổi già (vieillesse). Tại sao chúng ta già? Tuổi thọ đến lúc nào sẽ dừng lại? Nhân loại đã đạt được đến mức nầy hay chưa?
Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến. (Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet). Hồ Chí Minh đồng ý.
Vào lúc 5:00 giờ chiều Chủ Nhật 26/04/2020, Hòa Thượng Thích Phước Tịnh đã có buổi nói chuyện trên mạng lần thứ hai với nhóm Phật tử Giớ Trẻ Mây Từ, với chủ đề những điều Phật tử nên làm trong mùa đại dịch COVID-19 đang tiếp tục hoành hành.
New York bị thiệt hại nặng nề hơn bất cứ khu vực nào tại Hoa Kỳ bởi đại dịch vi khuẩn corona tính đến nay, 26 tháng 4, và ác mộng của tiểu bang vẫn còn chưa hết. Hôm Thứ Bảy, 25 tháng 4, có 5,902 người đã thử nghiệm dương tính với vi khuẩn corona, và trong khi đó là sự sút giảm từ cao điểm của tiểu bang (khi một ngày chứng kiến hơn 10,000 người thử nghiệm dương tính), tiểu bang này vẫn còn nhiều trường hợp bị lây mới hơn 25 tiểu bang đã bị trong tổng số hơn 3 tháng kể từ vụ lây lan của vi khuẩn vào Mỹ bắt đầu.
Nam Hàn tiếp tục đổ nước vào suy đoán gia tăng về sức khỏe của lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong Un, nói với CNN rằng ông ấy “còn sống và khỏe.” “Lập trường của chính phủ chúng tôi là vững vàng,” theo Moon Chung-in, cố vấn hàng đầu về chính sách đối ngoại cho Tổng Thống Nam Hàn Moon Jae-in, nói với CNN. “Kim Jong Un còn sống và khỏe. Ông ấy đã và đang ở tại khu vực Wonsan kể từ ngày 13 tháng 4. Không có biến đổi gì đáng nghi ngờ tính đến nay được phát hiện cả.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.